Hướng dẫn giải Dàn ý chi tiết Phân tích hình tượng dòng sông Hương trong bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.
Câu hỏi/Đề bài:
I. Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên viết về bút kí với những sáng tác kết hợp nhuần nhị giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, uyên bác thuộc nhiều lĩnh vực đời sống.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút kí trữ tình đặc sắc thể hiện rõ phong cách tác giả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
– Giới thiệu hình tượng sông Hương: để lại cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ khó quên về một con sông trong mối quan hệ gắn bó máu thịt với cội nguồn, lịch sử, văn hoá và con người xứ Huế.
II. Thân bài
Luận điểm 1: Trong mối quan hệ với cội nguồn, sông Hương là dòng chảy trải qua hành trình nhiều thăng trầm, gian truân từ dãy núi Trường Sơn về biển cả
– Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một bản trường ca của rừng già mang những giai điệu, tiết tấu vừa hùng tráng, vừa dữ dội, và đã sống một nửa cuộc đời… như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại… bản lĩnh gan dạ… tâm hồn tự do và trong sáng.
– Ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
– Vừa ra khỏi vùng núi, về với vùng đất châu thổ êm đềm, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục… Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc… nó chuyển hướng sang tây bắc… đột ngột vẽ một hình vòng cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
– Sông Hương khi chảy vào thành phố thân yêu, nó như đã tìm được đường về, tìm thấy chính mình. Nó “vui hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Dòng sông “kéo một nét thẳng” theo hướng tây nam – đông bắc, cuối đường “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng… in ngần trên nền trời… như những vành trăng non”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến khiến dòng sông mềm mại đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Sông Hương về đến Huế đã mang được linh hồn mảnh đất, con người nơi đây.
– Rời khỏi kinh thành, sông Hương “chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến… xa dần thành phố để lưu luyến ra đi… nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sông Hương là người tình dịu dàng và thủy chung với Huế. Trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương và Huế chẳng khác nào một cặp tình nhân, quyến luyến, ngập ngừng, dùng dằng tiếc nuối bởi sông Hương làm đẹp cho Huế, và Huế cũng khiến sông Hương mang vẻ đẹp riêng không lẫn với bất kì dòng sông nào.
→ Nhờ sức tưởng tượng phong phú trong việc xây dựng những hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo, kết hợp tư duy nghiên cứu với tư duy nghệ thuật, tác giả đã cung cấp cho người đọc những tri thức, hiểu biết thú vị về sự hình thành của sông Hương. Điều quan trọng, bằng cách thể hiện như vậy, người viết đã làm cho con sông không còn là vật thể thiên nhiên vô tri vô hồn mà trở thành một nhân vật có tâm hồn, sức sống mãnh liệt như con người qua những thăng trầm của cuộc đời.
→ Hành trình sông Hương từ nguồn ra biển khiến ta liên tưởng đến hành trình sinh tồn của một con người, của một miền đất, của một dân tộc.
Luận điểm 2: Sông Hương mang vẻ đẹp “sử thi” bi tráng khi “đã sống hết những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó”.
– Tác giả tỏ ra là người am hiểu lịch sử khi công phu tra cứu, lật tìm trong tư liệu lịch sử những sự kiện có liên quan đến dòng sông. Từ đó mà có liên tưởng thật chính xác và độc đáo:
+ Sông Hương như người dũng sĩ “đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”.
+ Sông Hương vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân “lịch sử bi tráng của thế kỉ XX với máu của những cuộc khởi nghĩa”.
+ Sông Hương là chủ nhân những “chiến công rung chuyển” trong cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân.
+ Sông Hương đồng hành cùng dân tộc trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp và chống Mĩ.
→ Quả thật, từ cách tiếp cận riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có cơ hội thấy hiểu sông Hương như một con người “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” góp phần viết nên trang sử vẻ vang của xứ Huế nói riêng, của cả dân tộc nói chung.
Luận điểm 3: Sông Hương còn bộc lộ vẻ đẹp nên thơ, gợi cảm trong quan hệ với nền văn hoá cố đô Huế
– Sông Hương là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn cho thơ ca nhạc hoạ “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.
– Gắn với âm nhạc cổ điển xứ Huế: sông Hương là “một tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; “điệu chảy lặng lờ” của dòng sông được nhà văn liên tưởng như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” làm sông Hương khác hẳn những con sông mà nhân vật “tôi” từng đặt chân đến khi sống xa xứ.
– Trong thi ca, sông Hương có khả năng tự tạo nên “một dòng thi ca” với những sắc thái trữ tình đa dạng, muôn màu qua hồn thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Tố Hữu…
– Sông Hương chứa đựng vẻ đẹp biến ảo, phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam Huế “sớm xanh, trưa vàng chiều tím” như một bức hoạ của Tạo hoá.
– Con sông xứ Huế còn ẩn chứa vẻ đẹp “trầm mặc” khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn; vẻ đẹp triết lí, cổ kính khi đi trong âm hưởng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga; vẻ “vui tươi” lúc qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long; vẻ “mơ màng… sương khói” khi rời xa thành phố.
Luận điểm 4: Gắn bó máu thịt với con người Huế, sông Hương trở thành dòng sông – đời người
– Sông Hương sống ân nghĩa với xứ sở đã sinh thành, cưu mang mình bằng cách đem đến dòng nước mát lành và bồi đắp những lớp phù sa màu mỡ để cây cỏ mỡ màng, hoa trái ngọt lành.
– Sông Hương như một “người tình mong đợi đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Cách so sánh tài hoa cho thấy người viết đã nhìn dòng sông và thành phố Huế như cặp tình nhân lí tưởng Kim – Kiều trong một kiệt tác văn học dân tộc thời trung đại. Cặp tình nhân ấy luôn trong hành trình tìm kiếm, đuổi bắt hào hoa và đam mê.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Thể loại bút kí
– Văn phong hướng nội, súc tích, tinh tế và tài hoa
– Sức liên tưởng phong phú, vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực
– Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa…)
– Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan
III. Kết bài
– Đoạn trích mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự do phóng túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng.
– Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.