Hướng dẫn giải Bài tham khảo Mẫu 4 Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.
Câu hỏi/Đề bài:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết về bút kí, tản văn. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người, đặc biệt là văn hóa Huế như: “Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông”,..Trong đó tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là một trong những trang viết hay nhất của nhà văn về một dòng sông mang ba huyền thoại đẹp – sông Hương.
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Bài ký có ba phần, sách giáo khoa trích học phần đầu. Với bút ký này tác giả đã mang đến cho người đọc những cảm nhận thật đầy chất thơ về dòng sông Hương theo dòng chảy của nó từ Trường Sơn cho đến khi chảy qua thành phố Huế và xuôi về biển.
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ gắn bó sâu sắc với dãy Trường Sơn. Sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm. Sự mãnh liệt, hoang dại của sông được thể hiện qua những so sánh: “Như một bản Trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội “mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc nó lại hiền lành, trữ tình “dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Nhà văn đã nhân hóa dòng sông giống như “một cô gái Digan phóng khoáng và man dại”. Con sông được rừng già hun đúc cho “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Đó là sức mạnh bản năng của người con gái, sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa lý lãnh thổ để đi ra khỏi rừng, “nó nhanh chóng mang một sắc đẹp nhẹ nhàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Với vốn hiểu biết về địa lý tác giả đã miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình ảnh: “Nhưng ngay từ đầu, vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sự chuyển dòng ấy, trong cách cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như “một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố trong tương lai của nó”. Vẫn những đường cong mềm mại, sông Hương lại có sự chuyển mình: “Từ ngã ba tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thêm đất bãi Ngọc Biểu, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một đường cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Có lúc cảnh sắc sông hương hiện lên như một bức tranh có đường nét, hình khối với “ sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm mại như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp đa màu mà biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Ngoài ra ta còn thấy sông Hương hiện lên với vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long. Có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.
Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng cho người đọc. Từ Kim Long, sông Hương đã nhìn thấy các hình ảnh “chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đó chính là chiếc cầu Tràng Tiền nối đôi bờ sông thơ mộng. Không chỉ vậy, vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được miêu tả “giáp mặt thành phố ở cồn Dã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”. Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật: “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy ! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.
Từ sông Hương xinh đẹp, nhà văn liên tưởng đến nhiều con sông trên thế giới như sông Xen, sông Nê – va, sông Đa – nuýp,..và nhận ra những điểm tương đồng giữa chúng là cùng chảy giữa lòng thành phố. Nhưng sông Hương khác với các dòng sông khác là bởi vì nó vẫn giữ được những nét cổ kính và nếu sông Nê – va chảy nhanh quá thì sông Hương lại chảy chậm buồn như điệu Slow “đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Tình cảm của dòng sông dành cho thành phố Huế cũng rất sâu đậm. Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “rồi như sực nhớ ra một điều gì đó chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc Bao Vinh xưa cổ”. Nhà văn ví sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng. Vì thế nên nhìn “khúc quanh này” thấy nó “thật bất ngờ”. Nhà văn cảm nhận khúc quanh ấy giống như “ là nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Đó là sự chí tình của sông Hương trở về “để nói một lời thề trước khi về với biển cả”. Tác giả liên hệ “lời thề ấy vang vọng khắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Dưới góc độ văn hóa, tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người đánh đàn tài nữ giữa đêm khuya…Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm khuya nghe con gái đọc Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Người nghệ nhân ấy đã nhổm dậy, vỗ đìu chỉ vào trang sách mà nói “Đó là Tứ Đại Cảnh”. Cũng từ đó cùng với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhớ tới Nguyễn Du “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Đây là cách liên tưởng độc đáo, tài hoa mang đến cho người đọc một sự bồi hồi, xao xuyến.
Trong cái nhìn đa diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một người tình dịu dàng, thủy chung mà còn là một anh hùng ghi dấu những thế kỉ vinh quang. Từ thuở các vua Hùng dựng nước cho đến Dư địa chí của Nguyễn Trãi với cái tên Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Dòng sông ấy là điểm tựa bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt. Thế kỉ XVIII nó mang vẻ soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đọng lại bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”. Nó đi vào thời đại của cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển. Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, lịch sử dân tộc.
Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, không hoàn hảo nếu như nhà văn quên đi một dòng sông thi ca. Sông Hương là nguồn thi hứng bất tận, nó vẫn “mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” để bao thế hệ lãng tử đến đây thả hồn ngụp lặn. Suy cho cùng, chính vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương trong thực tế đã làm nên điều kì diệu trong mỗi trang thơ. Sông Hương sẽ còn mãi tuôn chảy ngọt ngào, dạt dào trong nguồn mạch thi ca của dân tộc
Nét đặc sắc nghệ thuật trong văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là ở việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,..Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc trí tuệ, chủ quan và khách quan. Bút kí có sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân.
Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.