Giải chi tiết Câu tham khảo Mẫu 1 Phân tích những cảm nhận tinh tế của nhà thơ Xuân Diệu trước thiên nhiên thể hiện trong bài "Đây mùa thu tới" – Văn mẫu 11 Cánh diều.
Câu hỏi/Đề bài:
Khi làn gió thu se lạnh ùa về báo hiệu khoảnh khắc giao mùa cũng là lúc tâm hồn thi nhân bỗng trở nên nhạy cảm hơn bao giờ hết để đón nhận những chuyển biến tinh tế của đất trời. Nếu như Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu: “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” để bắt lấy trọn vẹn bức tranh thu, Lưu Trọng Lư lắng nghe “Tiếng thu về”, thì Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” lại đón thu trong sự xôn xao, đợi chờ qua “Đây mùa thu tới”. Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về thiên nhiên trong thời điểm giao mùa, từ hạ sang thu.
Cảm nhận tinh tế của “ông hoàng thơ tình” được thể hiện ngay ở nhan đề của bài thơ. “Đây mùa thu tới” gợi ra trước mắt người đọc bước đi một đi không trở lại của thời gian, mùa thu như hiện hữu ngay trước mắt người đọc với sự chuyển động hữu hình. Tâm hồn tinh tế của nhà thơ nắm lấy từng khoảnh khắc để rồi hồn thơ bắt gặp hồn thu, cho thấy một trái tim vô cùng nhạy cảm với những đổi thay của đất trời. Bức tranh chuyển mùa cứ thể hiện lên qua hồn thơ tinh tế đó.
Thiên nhiên nói chung và mùa thu nói riêng vốn là đề tài quen thuộc trên mảnh đất văn học phong phú và đa dạng. Khi miêu tả nàng thu, các thi nhân xưa thường sử dụng những thi liệu mang phong vị cổ điển như “Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ cộng trì thu”, còn Xuân Diệu- “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (theo cách nói của Hoài Thanh) lại tạo ấn tượng bởi hình ảnh rặng liễu:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tangTóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Trong không gian buồn “đìu hiu”, vắng vẻ của khoảnh khắc giao mùa, rặng liễu xuất hiện trầm mặc trong tư thế “đứng chịu tang” cho thấy cảm quan nghệ thuật mới mẻ của nhà thơ: Lấy con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên. Nỗi buồn của thi nhân thấm vào cảnh vật, khiến rặng liễu cũng trĩu nặng “lệ ngàn hàng” tạo nên cách cảm nhận vô cùng tinh tế về một dáng liễu, một nét liễu. Những rặng liễu giăng mắc cả một khoảng trời rủ xuống như “rơi lệ” trong cảnh “đứng chịu tang” làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía hơn. Hồn thu còn hiện lên gắn với nét hao gầy và rơi rụng qua hình ảnh: “Với áo mơ phai dệt lá vàng” đầy thi vị, gợi lên sự tàn phai trong vẻ đẹp rực rỡ. “Áo mơ phai” còn là hình ảnh cho thấy sự cảm nhận tinh tế của tác giả về sắc màu. Như vậy, qua cảm nhận tinh tế của nhà thơ, bước đi vô hình và hết sức nhẹ nhàng của thời gian cùng những đổi thay linh diệu của đất trời khi thu sang hiển hiện qua từng sắc lá, dáng cây.
Thi sĩ còn mở rộng biên độ của tâm hồn và vận dụng mọi giác quan để nắm bắt lấy những ý niệm vô hình, biến chúng thành sự hữu hình:
“Những luồng run rẩy rung rinh láĐôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Với tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, tác giả đã bắt trọn từng khoảnh khắc để bắt lấy sự đổi khác và cái cựa mình của thiên nhiên. Khi những cơn gió thu se se lạnh chợt ùa về, những cành cây khẳng khiu như run rẩy, khẽ rùng mình trong luồng gió lạnh đầu mùa. Sự chuyển động của thời gian được miêu tả thành công thông qua việc sử dụng phụ âm “r” qua các từ ngữ rụng, rũa, run rẩy, rung rinh đem đến giá trị thẩm mĩ và ẩn chứa những ý niệm về sự tinh tế. Và thậm chí, tâm hồn nhà thơ còn lắng nghe được cái lạnh trong làn gió: “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Động từ “luồn” kết hợp cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã được tác giả vận dụng một cách tài tình để cụ thể hóa cái “rét”, gợi lên cái lành lạnh của chiều thu, cho thấy người thi nhân không chỉ cảm nhận hồn thu, gió thu bằng các giác quan mà còn bằng tâm hồn hết sức nhạy cảm.
Cảm nhận tinh tế của tác giả còn thể hiện qua việc tô điểm cho mùa thu một nỗi buồn từ bên trong qua các hình ảnh đầy thi vị như “nàng trăng tự ngẩn ngơ”, “u uất hận chia ly”, “thiếu nữ buồn không nói”. Mùa thu với hai nét vẽ: thu trên bầu trời như “nàng trăng tự ngẩn ngơ” và thu dưới mặt đất như “người thiếu nữ buồn không nói” đem đến phong vị buồn man mác và mang đậm màu sắc chia ly, tiễn biệt.
Như vậy, với tâm hồn nhạy cảm và sự cảm nhận vô cùng tinh tế, bước đi của thời gian, bước thu đi đã được tác giả miêu tả thành công qua từng nét thu, từng dáng thu đẹp đẽ nhưng thấm đượm nỗi buồn. Chính điều này đã làm nên cái “tôi” riêng của Xuân Diệu trong làng thơ mới. Đó là cái “buồn không nói”, hoàn toàn khác với nỗi sầu thiên cổ, nỗi buồn “điệp điệp” của Huy Cận, và càng không giống với sự “buồn thiu” của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được một hồn thơ khao khát giao cảm với thiên nhiên, đất trời cùng tình yêu thiên nhiên của Xuân Diệu.