Trang chủ Lớp 11 Văn lớp 11 Văn mẫu 11 Cánh diều Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích văn bản Tấm lòng người...

Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích văn bản Tấm lòng người mẹ Văn mẫu 11 Cánh diều: “Trên đời này, chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài năng và chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng

Đáp án Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích văn bản Tấm lòng người mẹ – Văn mẫu 11 Cánh diều.

Câu hỏi/Đề bài:

“Trên đời này, chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài năng và chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng đó là lòng tốt”. Đó là câu nói nổi tiếng của nhà văn V. Huy – go. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc ấy được ông thể hiện rất rõ trong các sáng tác của mình, tiểu biểu là đoạn trích “Tấm lòng người mẹ” thuộc tiểu thuyết kinh điển “Những người khốn khổ”.

Victor Hugo (1802 – 1885) là một nhà văn, chính trị gia thi sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng của Pháp. Ông sáng tác cả thơ, kịch, truyện và ở thể loại nào cũng gặt hái được thành công. Sinh ra và lớn lên vào thời kì nước Pháp có nhiều biến động, khi mà giai cấp cầm quyền với sự trị vì của nhà vua gây nên đau khổ cho đời sống nhân dân, Huy-go đã chọn đứng về phía bênh vực quyền sống chính đáng của con người. Các tác phẩm của ông là sự kết hợp giữa mỹ học lãng mạn và cảm quan hiện thực sâu sắc. Đoạn trích “Tấm lòng người mẹ” nằm ở phần thứ nhất của “Những người khốn khổ”, cho thấy tình yêu cao cả của Phăng – tin dành cho con và số phận đáng thương của cô.

Bên cạnh nhân vật chính Giăng – van – giăng, Phăng – tin cũng là nhân vật lấy đi rất nhiều nước mắt của độc giả. Mở đầu đoạn trích là tình cảnh tội nghiệp của cô. Vào một ngày cuối đông, Phăng – tin bị đuổi khỏi xưởng. Người ta đuổi cô vì phát hiện ra “bí mật” rằng cô không có chồng mà lại có một đứa con. Ông Thị trưởng cho cô một chút tiền vàng nhân danh lòng nhân hậu rồi đuổi cô đi để giữ sự “chính trực”. Thời gian lúc ấy là mùa đông, không có ánh sáng, không có canh trưa, gợi lên sự lạnh lẽo và u uất, báo hiệu số phận buồn thảm của Phăng – tin. Hoàn cảnh của Phăng – tin lúc ấy thật đáng thương. Không có tiền, thời gian làm việc ngắn, Phăng tin bị chủ nợ thúc ép, giày vò. Đúng lúc ấy, vợ chồng Tê – nác – đi – ê gửi thư đến, muốn cô gửi cho chúng mười phờ – răng. Hành động cầm bức thư trong tay cả ngày đến nhàu nát cho thấy sự căng thẳng, giằng xé trong nội tâm của cô. Phăng – tin rất thương con nhưng cô chưa biết làm sao có thể nhanh chóng có được số tiền ấy. Trong phần trước của tác phẩm, Phăng – tin từng rất vui vẻ khi có việc làm. Cô sắm sửa chút ít đồ đạc, chăm sóc ngoại hình của bản thân và nuôi hi vọng một ngày nào đó sẽ đón Cô – dét bé bỏng về bên mình. Thế nhưng hoàn cảnh xã hội và sự nguội lạnh của lòng người đã khiến Phăng – tin rơi vào tình cảnh trớ trêu. Vì thương con, chị quyết định bán đi mái tóc óng ả của mình. Vợ chồng Tê – nác – đi – ê nhận được chiếc váy len thì vô cùng tức giận vì thứ chúng muốn là tiền. Nhà văn đã gọi đôi nhân vật này là những kẻ “hòa lẫn một vài thói hư của lớp dưới với hầu hết những tật xấu của tầng lớp trung gian. Vì thế chúng không có nhiệt tình hào hiệp của người thợ mà cũng vẫn thiếu cái tính ngăn nắp lương thiện của anh tư sản thị dân”. Phăng – tin, với tình yêu thương con mãnh liệt vẫn tự an ủi chính mình rằng mái tóc chị đã bán đi đã giúp Cô – dét ấm áp hơn trong mùa đông. Nhà văn đã rất tài tình khi sử dụng ngôi kể thứ ba rất khách quan, miêu tả được những biến động tâm lí sâu kín của nhân vật. Mất đi mái tóc tức là mất đi một niềm vui trong cuộc sống. Phăng – tin không thể chải chuốt, chị chán ghét tất cả. Đau đớn và bất lực, Phăng – tin căm hận những điều và những người đã gây nên đau khổ cho chị. Tâm lí của Phăng – tin cũng giống với nhân vật chính Giăng – van – giăng: “Anh tự hỏi xã hội sao lại có quyền bắt con người phải chịu đựng, một mặt là cái thói không phòng xa phi lý, một mặt là cái lối đề phòng quá tàn nhẫn của nó? Sao lại có quyền ép một người xấu số vào cái thế hiểm, giữa một cái thiếu và một cái thừa, thiếu việc làm và thừa hình phạt?”. Nỗi khổ khiến con người ta mất phương hướng và dần tha hóa. Phăng – tin ném mình cho một tên đàn ông vô lại, để mặc hắn đánh đập và hành hạ. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng lạ kì, càng đau đớn thì hình ảnh Cô – dét lại càng an ủi tâm hồn chị. Phăng – tin vẫn giữ niềm tin sẽ đón Cô – dét về. Chi tiết này cho thấy tình yêu con vô bờ, đức hi sinh cao cả và khát khao sống hạnh phúc của Phăng – tin.

Cuộc đời Phăng – tin đã vô cùng khốn khó nhưng vợ chồng Tê – nác – đi – ê vẫn không buông tha chị. Quả thực, “Tội lỗi cũng như luật hấp dẫn, chi phối mọi người”, thấy Phăng – tin thương con và cả tin, chúng tiếp tục lừa chị. Chúng viết thư nói rằng Cô – dét bị sốt ban và cần tiền để chạy chữa, những bốn mươi phờ – răng. Nội dung bức thư gây cho ta nhiều trăn trở. Sự gia tăng về số tiền và bệnh tình của Cô – dét cho thấy sự tha hóa ngày càng nhiều của vợ chồng Tê – nác – đi – ê. Phăng – tin vô cùng đau đớn. Dù chị rất yêu Cô – dét nhưng cũng không tránh khỏi sự bối rối, lo sợ vì số tiền quá lớn. Một bên là tính mạng của con gái, một bên là hiện thực tàn nhẫn, Phăng – tin như hóa điên. Hành động phá lên cười và nói với bà láng giềng “Nghĩa là hai đồng vàng! Đào đâu ra?” cho thấy chị đã quá khổ sở đến mức gần như mất trí trong giây phút đó. Phăng – tin không biết cầu cứu ai vì cả xã hội luôn áp bức những con người như chị, chỉ có thể cất lên tiếng cười chua chát.

Khi nhận được lời đề nghị bán răng nửa đùa nửa thật của người nhổ răng dạo, Phăng – tin cảm thấy điều này thật lố bịch và đáng tức giận. Điều đáng trân trọng ở Phăng tin chính là chị luôn có ý thức về vẻ đẹp của bản thân, biết yêu lấy chính mình. Sở thích chải chuốt và ngắm mình trong gương cũng là một việc làm giúp chị khuây khỏa. Tác giả đã thành công xây dựng một tình huống éo le, đặt nhân vật vào sự thử thách để nổi bật phẩm chất của Phăng – tin. Phăng – tin tức giận nhưng vẫn bị lời đề nghị của người nhổ răng dạo làm xao nhãng. Những hai đồng vàng kia mà? Đó chính là số tiền mà con chim Sơn Ca nhỏ của chị cần! Phăng – tin bịt tai chạy đi để mong thoát khỏi lời nói ám ảnh ấy. Khi về nhà, chị vẫn bực tức kể lại chuyện với người láng giềng. Đoạn đối thoại giữa Phăng – tin và người đàn bà ấy thể hiện rõ sự đấu tranh nội tâm gay gắt của Phăng – tin. Chị trầm ngâm suy nghĩ, làm việc rồi lại giở bức thư của nhà Tê – nác – đi – ê ra đọc. Bằng tất cả tình yêu con của một người mẹ, chị hỏi người láng giềng tất tần tật về căn bệnh mà vợ chồng Tê – nác – đi – ê nói đến. Khi biết có rất nhiều người đã chết vì căn bệnh ấy, chị đọc bức thư lại lần cuối cùng và ra đi về phía quán Ti – lắc. Người mẹ ấy đã quyết định hi sinh thân thể mình một lần nữa vì con.

Cảnh tượng sau đó thật ghê rợn. Phăng – tin xuất hiện như một bóng ma. Mặt chị lạnh lẽo, tái nhợt, chiếc mũ chụp thì rơi xuống đầu gối. Nụ cười chị rớm máu. Đã cả đêm Phăng – tin không ngủ, nỗi đau cả thể xác và tinh thần đang tra tấn chị. Nếu số tiền mà nhà Tê – nác – đi – ê tăng lên để thể hiện sự tha hóa của chúng thì sự hi sinh theo mức độ tăng dần của Phăng – tin lại càng tô đậm đức hi sinh, tình yêu con của người mẹ khốn khó. Mới có một đêm, Phăng – tin như già đi mười tuổi. Ấy vậy mà chị vẫn nói với bà láng giềng: “Con tôi sẽ không chết vì cái bệnh ác nghiệt ấy vì có thuốc rồi. Tôi rất hài lòng”. Kể cả có trở nên biến dạng, xấu xí, người mẹ ấy vẫn quyết tâm làm tất cả để đứa con được sống. Phăng – tin chết đi một chút, nhưng với chị, đó lại là cơ hội cho Cô – dét. Nhưng thật trớ trêu, chị không biết rằng tất cả chỉ là một vở kịch của nhà Tê – nác – đi – ê. Ở nơi xa, con gái của chị được người ta trông thấy với hình ảnh “không lớn hơn con chim, run lẩy bẩy, lúc nào cũng sợ sệt, giật mình, trong nhà và cả trong làng sáng tinh sương chưa có ai dậy, đã thấy nó ở ngoài đường hay ra đồng rồi”.

Quá đau khổ, Phăng – tin như hóa điên. Chính xã hội bất lương đã đẩy chị đến con đường tha hóa. Không gian nơi Phăng – tin ở không chỉ cho thấy tình cảnh ngày một khốn khó mà còn thể hiện cả sự héo tàn, mất hết sức sống của tâm hồn người đàn bà. Cái gác xép sát mái nhà chật chội, chỉ có mảnh giẻ rách gọi là chăn, một cái đệm vứt xuống sàn. Cây hồng con đã chết khô. Xã hội này đã lấy đi của chị tất cả, Phăng – tin dường như không còn gì để mất nên chị cũng mặc kệ vẻ ngoài của bản thân, cứ thế mặc quần áo bẩn đi ra ngoài phố. Dẫu người đời chỉ trỏ, dòm ngó, chị cũng chẳng màng. Chính sự dòm ngó vô lương tâm đó đã khiến chị mất việc, mất đi nguồn sống, là nguồn cơn đẩy chị vào cảnh biến dạng về thân thể. Tất cả hành động của Phăng – tin ở phần này cho thấy sự chống đối lại xã hội trong đau đớn và bất lực, muốn phản kháng nhưng không thể. Chị cười nhạo chính mình và xã hội. Căn bệnh, chủ nợ vẫn hành hạ Phăng – tin suốt. Chị quả thực không khác gì “một con vật bị người ta săn bắt và đương hóa nên hung tợn vì bị đẩy đến đường cùng”. Người phụ nữ ấy từng biết hi vọng, yêu thương, biết làm đẹp. Giờ đây, cuộc đời chị hủy hoại. Con người bé nhỏ bị đùn đẩy, vò nát trong tay những kẻ bất lương, tham lam, độc ác.

Đoạn trích kết thúc với một cái kết ám ảnh và ghê sợ. Lòng tham vô độ của nhà Tê – nác – đi – ê được đẩy lên đến tận cùng và sự thống khổ, tình yêu con của Phăng – tin cũng được thể hiện mãnh liệt nhất. Vợ chồng Tê – nác – đi – ê “như loài tôm tép chỉ muốn giật lùi và đi sâu mãi vào trong bóng tối chứ không muốn tiến lên chút nào”, lại viết thư đòi thêm một trăm phờ – răng ngay lập tức, nếu không chúng sẽ tống Cô – dét ra ngoài. Phăng – tin quyết định đi làm gái điếm để có được số tiền ấy, bán đi cả danh dự của mình. Người mẹ có thể chịu đựng mọi sự tra tấn, kể cả sự tra tấn dã man nhất – mất đi danh dự con người để cho đứa con có hi vọng sống.

Đoạn trích đã thể hiện tình yêu thương con vô bờ cùng số phận đau khổ của nhân vật Phăng – tin. Phăng – tin sẵn sàng hi sinh cả thân thể và danh dự của mình để cứu con. Đoạn trích cũng cho thấy sự thương cảm của tác giả dành cho số phận khốn khổ của những người dân lao động trong xã hội Pháp thời bấy giờ và phê phán những kẻ lừa đảo, gian ác, xã hội mục ruỗng cướp đi hạnh phúc con người. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật xây dựng cốt truyện đặc sắc, tình huống truyện éo le để làm nổi bật phẩm chất của nhân vật. Ngoài ra, ngôi kể thứ ba khách quan, chân thực cùng nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, cách xây dựng không gian, thời gian gắn với sự thay đổi của nhân vật đã góp phần làm nên thành công cho đoạn trích.

Qua đoạn trích, ta thấy được tài năng xuất chúng và tấm lòng nhân đạo của V. Huy – go. Nói như Dostoevsky thì “Khi pháp luật và phong hóa còn đày đọa con người, còn dựng nên những địa ngục giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm, chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi, và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ còn tồn tại, thì những cuốn sách như loại này còn có thể có ích.”