Trang chủ Lớp 10 Văn lớp 10 Văn mẫu 10 - Kết nối tri thức Câu tham khảo Mẫu 2 Viết bài văn Phân tích tác phẩm...

Câu tham khảo Mẫu 2 Viết bài văn Phân tích tác phẩm Sống mòn Văn mẫu 10: Sau hơn mười lăm năm cầm bút, Nam Cao đã để lại cho đời sau một khối lượng truyện ngắn cùng tiểu thuyết đồ sộ

Giải chi tiết Câu tham khảo Mẫu 2 Viết bài văn Phân tích tác phẩm Sống mòn – Văn mẫu 10 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Sau hơn mười lăm năm cầm bút, Nam Cao đã để lại cho đời sau một khối lượng truyện ngắn cùng tiểu thuyết đồ sộ, tên tuổi ông gắn liền với những tác phẩm văn học nổi tiếng như “Chí Phèo”, “Lão Hạc” hay “Đời thừa”. Trong đó không thể không nhắc đến Sống mòn, một thiên tiểu thuyết hiện thực neo đậu vững chắc trong lòng độc giả xuyên suốt theo năm tháng.

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông sinh năm 1917 tại huyện Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nam và mất vào năm 1951 tại Ninh Bình. Cả cuộc đời, nhà văn vừa cầm bút viết văn, vừa vác súng chiến đấu bảo vệ nước nhà. Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực, các tác phẩm của ông đã lột tả cho người đọc thấy được cái bản chất xấu xa của xã hội và nhân tính hủ lậu của con người đương thời. Ngòi bút của Nam Cao tập trung chủ yếu vào hai chủ đề: Người tri thức nghèo và người nông dân thấp cổ bé họng trong xã hội cũ, phong cách viết của ông vừa chân thực vừa trữ tình, trào phúng lại không thiếu phần tinh tế.

Tác phẩm Sống mòn được xuất bản vào 1956 với tên ban đầu là Chết mòn, tuy nhiên tiểu thuyết đã hoàn thành vào năm 1944 và được nhà văn Tô Hoài giữ bản thảo trong suốt những năm tháng kháng chiến. Sống mòn là một thiên tiểu thuyết hiện thực dưới ngòi bút của nhà văn thiên tài Nam Cao. Tác phẩm là một bức tranh lột tả cuộc sống cơ cực của những kiếp người bất hạnh bị cái nghèo, cái đói biến thành nô lệ. Sống mòn không phải là một áng văn chương dịu dàng lãng mạn hay trữ tình đẹp đẽ, nó là một tấm gương lớn đặt giữa xã hội đương thời, để người đọc soi vào đó mà thấy được những mảnh đời u tối, bi thảm, chua xót, nhìn quanh bốn bề đều mịt mù ảm đạm.

Mạch văn của tiểu thuyết không nhanh không chậm, xuyên suốt câu chuyện, người đọc dường như chỉ thấy một màu sắc u ám, ảm đạm của cuộc sống quẩn quanh trong hai chữ nghèo khổ. Sống mòn để cho người đọc cảm nhận được một nỗi thống khổ dồn nén trong từng câu từ, như có một cái gì nghẹn lại ở ngực, muốn khóc lại không thể khóc.

Tiểu thuyết không có quá nhiều nhân vật, cũng không có những tình tiết cao trào hay giật gân, nó chỉ xoay quanh cuộc sống thường nhật của những con người sống trong cái kiếp nghèo khổ để rồi bản tính tốt của người ta lại bị bào mòn trong cái đói, cái kém ấy.

Nhân vật chính của câu chuyện là một thầy giáo tên Thứ, anh từ bỏ cuộc sống chốn làng quê và gia đình của mình để lên Hà Thành làm thầy giáo cho một trường tư của anh họ là Đích với hy vọng sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên những mơ ước của Thứ đã dần lụi tàn theo cuộc sống cơ cực nơi tha phương, nhiều mối lo đè nặng lên vai anh, từ chuyện tiền nhà trọ, tiền lương không đủ sống hay bị đối xử ích kỷ, hẹp hòi bởi những người xung quanh. Điều này đã làm cho Thứ có cảm giác như mình đang chết dần đi từng ngày bởi cái vòng lặp nghèo khổ oan nghiệt của cuộc đời. Chính cái nghèo đã thay đổi con người anh và hơn hết là thay đổi cả đời của Thứ.

Nó khiến cho anh và Liên, vợ của mình phải chia đôi hai ngả và làm cho hiểu lầm chồng chất hiểu lầm, những đau khổ, uất ức, tủi hờn của cuộc đời đều do cái nghèo, cái đói gây nên. Cái chết không đáng sợ, đáng sợ là chết trong lúc sống, sự bám riết mòn mỏi và dai dẳng của cái nghèo khiến người ta có cảm tưởng mỗi ngày thức dậy là mỗi ngày tiến gần hơn đến tang lễ của mình. Thứ cũng không ngoại lệ, anh cho rằng rồi mai đây “đời y sẽ sẽ mốc lên, sẽ gỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra, ở một xó nhà quê…rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”. Sống dưới mái nhà trọ xập xệ và cáu bẩn, Thứ biết thêm nhiều người mới cũng khổ đau và bất hạnh bởi nghèo.

Như người mẹ trẻ túng bần phải làm quần quật cả ngày để nuôi hai đứa con thơ, chen chúc trong một căn nhà lá chật chội, hàng ngày nhẫn nhục nhìn cảnh chồng quấn quýt, chung chạ với người vợ hai mà không thèm đoái hoài gì đến mình. Như Oanh, một con người có học thức và gia giáo cũng vì cái nghèo mà trở nên ích kỷ nhỏ nhen, cô làm đủ mọi cách để không phải chịu đói, thậm chí Oanh còn sợ phải đứng ra lo ma chay cho vị hôn thê đang hấp hối của của mình, cô không muốn làm điều đó mà cũng chẳng có khả năng làm. Như những đoàn người ăn mặc rách rưới bẩn thỉu nơi đầu đường xó chợ chỉ chực chờ sự bố thí của những kẻ giàu có để kiếm miếng ăn. Cái nghèo bao trùm lên cuộc đời của tất cả những con người ở tầng lớp thấp. Nó khiến người ta trở nên cục súc, cáu bẳn hơn bao giờ hết và nghèo còn khiến tâm hồn, lý tưởng của một con người bị mài mòn đi trong từng giờ khắc.

Như thế có thể thấy, tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao được thu lại trong cuộc sống thường nhật của người tri thức nghèo, không tô vẽ cũng không làm hoa mỹ tình tiết, tuy nhiên vẫn giữ được tính thẩm mỹ của câu từ.

Bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, ông đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả ngay từ những trang văn đầu tiên. Sống mòn là một thiên tiểu thuyết hiện thực thành công bật nhất của Nam Cao, mặc dù không thể vượt qua cái bóng của Chí Phèo nhưng tác phẩm này cũng đã neo đậu lại trong lòng rất nhiều khán giả suốt một thời gian dài.

Đến khi gấp lại cuốn tiểu thuyết, người đọc dường như vẫn chưa thoát ra được khỏi sự ảm đạm và bí bách mà nó mang lại, một bức tranh về hiện thực khắc nghiệt về quá trình biến đổi bản chất của con người trong sự nghèo đói. Sống mòn giống như tiếng gọi đàn, là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu, một điều không thể phủ nhận, cuốn tiểu thuyết này chính là kiệt tác vĩ đại thăng hoa từ mảnh đất hiện thực màu mỡ, rất đáng để chúng ta đọc một lần.