Trang chủ Lớp 9 Lịch sử và Địa lí lớp 9 SGK Lịch sử và Địa lí 9 - Cánh diều (?) Câu hỏi mục II 1c Bài 14 Lịch sử và Địa...

(?) Câu hỏi mục II 1c Bài 14 Lịch sử và Địa lí 9: Mô tả những thành tựu của miền Bắc trong những năm 1965-1975. Đánh giá vai trò của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?

Giải chi tiết (?) Câu hỏi mục II 1c Bài 14: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1991 – SGK Lịch sử và Địa lí 9 Cánh diều. Hướng dẫn: Đọc kĩ phần 1c. Miền Bắc chi viện cho cách mạng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại.

Câu hỏi/Đề bài:

Mô tả những thành tựu của miền Bắc trong những năm 1965-1975. Đánh giá vai trò của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?

Hướng dẫn:

– Đọc kĩ phần 1c. Miền Bắc chi viện cho cách mạng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại của Mỹ (1965- 1973)(SGK trang 78)

– Chỉ ra những thành tựu của miền Bắc trong những năm 1965-1975. Đánh giá vai trò của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Lời giải:

– Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ, đã hai lần tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân: lần 1 từ tháng 8-1964 đến tháng 11-1968, lần 2 từ tháng 4-1972 đến tháng 1-1973.

– Ngay từ những ngày đầu Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang trạng thái thời chiến: sơ tán nhân dân để hạn chế thiệt hại về người và của: vừa duy trì các hoạt động sản xuất và chiến đấu, vừa nỗ lực chi viện cho cách mạng miền Nam.

– Trong 4 năm (1965 – 1968), miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men… Tính chung, trong 4 năm, sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào chiến trường miền Nam tăng gấp 10 lần so với giai đoạn trước.

– Riêng năm 1972, miền Bắc đã động viên hơn 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang, đưa vào chiến trường 3 nước Đông Dương nhiều đơn vị bộ đội được huấn luyện, trang bị đầy đủ; còn khối lượng vật chất đưa vào chiến trường tăng gấp 1,7 lần so với năm 1971.

– Trong hai năm 1973 – 1974, miền Bắc đưa vào chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật. Đột xuất trong năm 1975, miền Bắc đưa vào miền Nam 57.000 bộ đội. Về vật chất – kĩ thuật, miền Bắc có nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ nhu cầu to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam. Từ đầu mùa khô 1973 – 1974 đến đầu mùa khô 1974 – 1975, miền Bắc đưa vào chiến trường hơn 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm.

– Trong giai đoạn 1964-1968 và 1972 – 1973 : 2 lần bắn rơi máy Mỹ trong hai cuộc chiến tranh phá hoại , lần 1 : 3243 chiếc, lần 2 : 735 chiếc.

– Trong giai đoạn 1964-1968 và 1972-1973 : 2 lần bắn cháy, bắn chìm tàu chiến, tàu biệt kích Mỹ trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, lần 1: 143 chiếc , lần 2: 125 chiếc.

– Trong các cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, quân dân miền Bắc đã lập nhiều thành tích, đặc biệt là trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng,,.. Với việc bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 chiếc B-52 5 chiếc F-I11), thắng lợi này có ý nghĩa như trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải kí hiệp định Pa-ri và chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973).