Trang chủ Lớp 8 Văn lớp 8 Văn mẫu 8 - Kết nối tri thức Viết bài văn phân tích tác phẩm Vịnh khoa thi Hương (tiếp):...

Viết bài văn phân tích tác phẩm Vịnh khoa thi Hương (tiếp): chi tiết Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ: Sĩ tử” là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng,…

chi tiết Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ: Sĩ tử” là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng,…. Nội dung các em đang xem là một trong những bài viết thuộc “Viết bài văn phân tích tác phẩm Vịnh khoa thi Hương (tiếp)” trong Tổng hợp 50 bài văn phân tích một tác phẩm văn học – Văn mẫu 8 – Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

1. Mở đoạn:

– Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và dẫn dắt vào bài Vịnh khoa thi Hương.

2. Thân đoạn:

a. Hai câu đề

Nhà nước ba năm mở một khoa: lời thông báo, giới thiệu của tác giả về quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay.

Trường Nam thi lẫn với trường Hà: Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, nhưng năm nay thí sinh của hai trường này lại ngồi trộn lẫn với nhau.

Từ “lẫn” diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của triều đình.

→ Dẫn dắt vào bối cảnh của kì thi một cách tài tình, độc đáo, phần nào phản ánh được thực trạng kì thi lúc bấy giờ.

b. Hai câu thực

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ: Sĩ tử” là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi. Đảo chữ “lôi thôi” lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này → gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước.

Ậm ọe quan trường miệng thét loa: Cái âm thanh “ậm ọe” ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Sự trang trọng trong việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền nào.

→ Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật lên khung cảnh của trường thi. Nhưng trong đó, người ta thấy không chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực dân nửa phong kiến.

c. Hai câu luận

Hình ảnh của một “ông Tây” với “bà đầm” phản ánh thật đúng với cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ: người dân trở thành nô lệ, triều đình là một bức bình phong còn thực quyền ở trong tay người Pháp.

Tú Xương đặt cái “váy” của bà đầm và cái “lọng” của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm

Từ “quan sứ” để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ “mụ đầm” khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự “chơi xỏ” mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp.

d. Hai câu kết

“Đất Bắc” vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị.

“Nhân tài” ở đây là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này và cũng là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem “cảnh nước nhà”.

→ Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc.

3. Kết đoạn:

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ; đồng thời nêu lên cảm nghĩ của bản thân.