Trả lời Dàn ý chi tiết Viết bài văn phân tích tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu – Văn mẫu 8 Kết nối tri thức.
Câu hỏi/Đề bài:
1. Mở đoạn: Dẫn dắt, giới thiệu về văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
2. Thân đoạn:
a. Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu
– Theo lệ thường “Nhà nước ba năm mở một khoa”: Ba năm có một khoa thi thi Hương.
– Điều khác thường:
“Trường Nam thi lẫn với trường Hà”: “Trường Nam” là trường thi ở Nam Định, “Trường Hà” là trường thi ở Hà Nội. Đó là hai trường thi Hương ở Bắc kì thời xưa. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội thì trường thi ở đây bị bãi bỏ, các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
Từ “lẫn” cho thấy quang cảnh bát nháo, lẫn lộn của trường thi. Điều đó làm mất đi vẻ trang nghiêm của kì thi Hương.
b. Cảnh trường thi trong thực tế
Sĩ tử “lôi thôi, vai đeo lọ” gợi dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác.
Quan trường “ậm ọe, miệng thét loa”: sự ra oai, nạt nộ nhưng đó là vẻ bên ngoài.
=> Từ đó cho thấy cảnh thi cử lúc bấy giờ thật nhốn nháo, không còn theo quy củ. Cảnh trường thi đã gián tiếp phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
Quan sứ: “Cờ kéo (Lọng kéo) rợp trời quan sứ đến”: cho thấy sự đón tiếp trọng thể.
Mụ đầm: “Váy lê quét đất mụ đầm ra” cho thấy lối ăn mặc diêm dúa, phô trương.
Nghệ thuật đối: cờ – váy, trời – đất, quan sứ – mụ đầm nhằm mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.
=> Sự có mặt của quan sự đáng lẽ ra phải khiến quang cảnh trường thi trở nên trang nghiêm hơn. Nhưng trái lại, sự xuất hiện này càng khiến cho sự nhếch nhác, tùy tiện được bày ra rõ ràng hơn.
c. Thái độ, tâm trạng của nhà thơ
– Câu hỏi tu từ “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”: thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
– Tâm trạng, thái độ: sự tủi nhục, xót xa trước thực tại đau đớn của nước nhà.
3. Kết đoạn: Khẳng định giá trị của bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.