Trang chủ Lớp 7 Văn lớp 7 Văn mẫu 7 - Kết nối tri thức Bài siêu ngắn Mẫu 3 Thuyết minh về quy tắc hoặc luật...

Bài siêu ngắn Mẫu 3 Thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trò chơi thi thổi cơm Văn mẫu 7: Hàng năm, cứ đến mười rằm tháng Giêng, người dân làng Ngọc Tiên

Hướng dẫn giải Bài siêu ngắn Mẫu 3 Thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trò chơi thi thổi cơm – Văn mẫu 7 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Hàng năm, cứ đến mười rằm tháng Giêng, người dân làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) mở hội tưởng nhớ công đức Thành Hoàng làng là Hoàng Văn Quảng đã có công giúp dân làng dẹp giặc trấn biên. Hội làng ngoài phần chính lễ còn có tục thổi cơm thi, làm cỗ chay, trước là dâng cúng thánh thần tổ tiên, sau là ôn lại bước đường chinh chiến đầy gian khổ của thánh tổ và cha ông những ngày đầu dấy binh trấn ải.

Tích xưa để lại, làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) xưa là vùng bãi bồi ven biển thuộc trần Sơn Nam hạ. Vào thời Hậu Lê, triều đình cử một vị tướng tài là Hoàng Văn Quảng về chiêu mộ quân sĩ, giúp dân làng Ngọc Tiên dẹp giặc trấn biên, ổn định cuộc sống. Nhờ tài thao lược “Chiêu binh mãi mã, tích thảo dồn lương” của ông mà nhân dân ở đây được hưởng cuộc sống thái bình no đủ. Năm 1743, vua Lê Cảnh Hưng ban sắc cho ông là Thông huyền chế cảm Linh thánh Đại vương tiên hiệu Quảng. Tri ân công đức của ông, dân làng Ngọc Tiên tôn ông lên làm Thành Hoàng làng, lập đền thờ và lấy ngày mười rằm tháng Giêng làm ngày chính kỵ. Vào ngày này, dân làng gác lại mọi công việc đồng áng, tập trung ra đền làm lễ tế thánh. Con cháu sinh sống làm ăn xa quê đều sắp xếp công việc về với xóm, với làng. Tiếng chiêng, tiếng trống, cờ xí rợp trời, cộng đồng làng xã nhất tiên nhất đế cho ngày lễ trọng. Sau phần chính lễ, chính hội diễn ra với tâm điểm là tục thổi cơm thi, làm cỗ chay dâng thánh với ý nghĩa diễn lại cảnh sinh hoạt của nghĩa binh dưới thời Đức Thánh tổ dấy binh trấn ấp, thiếu thốn mọi bề, vừa hành quân, vừa lo hậu cần và phải “tích cốc phòng cơ” cho những khi thiếu đói. Chính vì vậy, tục thổi cơm thi trong hội làng Ngọc Tiên diễn ra theo một quy trình khép kín từ việc lấy nước, tạo lửa, đến thổi cơm làm bánh. Và đây cũng chính là nét độc đáo hấp dẫn làm nên đặc trưng của hội làng Ngọc Tiên so với các vùng quê khác.

Trước ngày vào đám, tất cả các giáp đều cử người lên đền mang dụng cụ thi đấu là bộ chõ đồ, nồi đồng điếu, quang gánh, cần trúc, bát đĩa…từ thời cổ xưa để lại ra lau chùi, sửa sang cho thật sạch sẽ, thanh tịnh. Bãi đất trước cửa đền được san phẳng, đường dong ngõ xóm dọn dẹp phong quang, chuẩn bị cho ngày chính hội. Tham dự hội làng có 6 giáp, được chia theo đơn vị xóm. Mỗi giáp phải có đủ 14 người đều là nam giới, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn, không vướng tang ma. Xưa kia, đỗ, gạo thổi cơm, đồ xôi, làm bánh phải được trồng riêng trên phần ruộng huệ điền. Quá trình trồng cấy, thu hoạch, bảo quản gạo, đỗ đều do tay các lão nông đảm nhận. Việc lấy nước, tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới làm. Phụ nữ không được phép tham gia vào bất cứ phần việc nào của phần chính lễ và chính hội.

Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, các giáp phải trải qua hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Chỉ khi có nước và có lửa, thổi cơm thi mới được bắt đầu. Ở phần thi địch thủy, mỗi giáp cử ra 2 người, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng loạt chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy cho đầy nậm nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình chạy rước nước, ngón tay cái của người rước nước phải bịt chặt miệng nậm để nước khỏi sánh ra ngoài. Ai mang nước về nhanh nhất, không làm vương vãi nước dọc đường là người thắng cuộc. Phần thi địch hỏa được coi là gay cấn, lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp không chỉ đối với người dự thi, dân làng mà còn cả với khách thập phương tham dự. Bởi có đạt kết quả ở phần thi này mới được tiếp tục tham dự ở vòng kế tiếp. Hơn nữa, theo quan niệm của người phương Đông thì việc tạo lửa trong ngày đầu xuân là điềm lành, mang nhiều may mắn, thuận lợi. Do đó, thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ hiệu chính xác là trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng. Mỗi giáp vào dự thi mang theo một bộ dụng cụ địch hỏa gồm một thanh cái đặt cố định dưới đất được làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa. Thanh tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo bởi gốc cây tre già, dùng để cọ sát vào thanh cái. Bí quyết chắc thắng trong phần thi này là dụng cụ địch lửa phải được làm từ cây tre chết bụi, lại phải gác gác bếp thêm 3 tháng nữa mới sử dụng được. Khi vào cuộc 12 người của 6 giáp xếp thành hàng ngang, tất cả nín thở, dùng 1 lực cọ sát 2 thanh tre vào nhau tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn cưa vón cục, gặp ma sát lớn tạo thành lửa. Nhưng lúc này lửa chỉ là 1 đốm than hồng, người kéo lửa phải khéo hà hơi để lửa bén vào bùi nhùi rơm bùng lên thành ngọn lửa lớn. Lúc này, cả sân đền mới vỡ òa tiếng reo hò cổ vũ của dân làng và du khách tham dự. Khó khăn là vậy nhưng quy định cho phần thi này chỉ được thao tác trong vòng từ 20-25 giây. Vậy mà bằng sự nỗ lực của bản thân, sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm, đã có năm các chàng trai của làng Ngọc Tiên chỉ mất 12 giây để tạo ra lửa. Vận động viên địch lửa giơ cao ngọn lửa do mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi của mình đã hoàn tất rồi cùng dân làng rước lửa về sân nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh, thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ tưng bừng. Ai đã từng tham dự hội làng Ngọc Tiên, mới thấy hết tài năng, sự khéo léo của người dân nơi đây. Người tham dự phần thi thổi cơm, phải phụ trách mọi công việc từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm, giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu, theo sau là cả đoàn rước khua chiêng, gõ trống tưng bừng. Để hoàn thành tốt phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị rất công phu từ chiếc cần trúc treo niêu cơm đến việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi chọn 3 vòng rước quanh sân đền bất luận tiết trời đầu xuân có mưa bụi giăng mắc, có rét đài, rét lộc ghé qua. Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc vào lớp người xưa nay hiếm, đã tham gia hội làng từ khi còn trai trẻ, nay lại tham gia ban bảo vệ di tích cho biết: Chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm đã mất đẫy 3 năm. Người ta uốn cong ngọn măng trúc khi vừa mới vượt khỏi mặt đất thành hình chữ S, vào nuôi dưỡng thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì đẵn xuống. Lại cho cây trúc tắm qua khói lửa, bồ hóng thêm một thời gian nữa mới đem vào sử dụng. Khi vào cuộc, vòng cong lớn của cần trúc ép vào dọc sống lưng người chơi và cố định lại bằng một dải lụa điều. Phần cong nhỏ vắt qua vai để treo quang sắt, cố định chiếc nồi đồng điếu bên trong. Hai tay cầm 2 bó đuốc hơ đáy nồi cơm cho chín. Người nấu cơm phải ước lượng nên gia lửa, hãm lửa lúc nào để cho cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm no nước, chín đẫy hơi thì cơm mới nục. Đến khi cơm sôi, hai bó đuốc được dồn cả về một bên tay, tay còn lại cầm một chiếc móc vừa mở vung nồi, vừa quay đầu kia lại ghế cơm. Đây cũng là lúc người ta nhìn hạt gạo để điều tiết lửa sao cho cơm vừa chín tới đạt yêu cầu không khô, không hấy, đơm đủ 1 bát cơm lồng góp vào mâm cơm cúng thánh. Bên cạnh cơm là món chính, mâm cỗ chay còn có 4 loại bánh khác nhau là bánh ống, bánh bìa, bánh phong, bánh giáo và một bát chè đường. Mỗi loại bánh có yêu cầu kích thước, hình dáng, màu sắc khác nhau nhưng lại được làm từ nguyên liệu chung là gạo nếp, đỗ xanh đường kính và quả gấc chín. Cái khó nữa mà làng xã muốn thử thách đôi bàn tay thô ráp vốn chỉ quen với cày bừa, cuốc xới quanh năm của cánh nam giới là phải xếp tất cả các loại bánh, gạo đồ xôi vào chung 1 chõ, đồ 1 lửa mà xôi chín dẻo thơm, trắng bông tinh khiết, bánh chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để hàng tháng trời mà không thiu không mốc. Bốn loại bánh trên mâm cỗ chay tượng trưng cho các loại lương khô mà thánh tổ đã làm ra giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường ngay cả khi giặc dã mưa gió, lụt lội, không nổi lửa được. Sau 150 phút, mâm cỗ chay phải hoàn tất có đủ 4 loại bánh, một bát chè đường, 1 bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một đĩa trầu cau, và một quả bưởi để dâng lên cúng thánh cầu cho quốc thái dân an, làng xã thịnh vượng, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi. Sau 1 tuần hương, cỗ chay của các giáp được mang ra sân đình chấm điểm. Ban tổ chức trao giải cho cả 6 giáp tham dự, nhưng giáp nào đạt giải nhất thì được dân làng ưu tiên cắt đặt công việc trong suốt một năm. Xưa kia, mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem biếu các tổng bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hảo và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Sau này, tan hội vào, lễ hoàn làng, cỗ xóm nào mang về xóm đó, chia đều cho tất cả dân làng từ cụ cao niên, em bé còn ẵm ngửa đến những người góa bụa, tật nguyền. Nét đẹp này còn lưu giữ nguyên vẹn đến ngày nay.

Thổi cơm thi trong lễ hội mùa xuân làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) là một lễ tục đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc và sắc thái văn hóa làng quê. Đến nay, xã hội có nhiều thay đổi, nhịp sống vận hành cuồng nhiệt hơn, nhiều luồng văn hóa ngoại lai xuất hiện nhưng bản sắc làng quê không hề bị mai một. Văn hóa làng trở thành chất keo dính gắn kết cộng đồng làng xã. Vậy nên không còn ruộng huệ điền, người dân làng Ngọc Tiên không ai bảo ai nhà nhà tự góp công, góp của giữ nếp làng. Tích xưa được truyền kể cho lớp lớp cháu con cùng nghe để được tự hào và noi gương Đức Thánh tổ. Còn kỹ thuật địch thủy, địch hỏa, thổi cơm thi, uốn cần trúc, chọn tre già…thì đời cha truyền lại cho con trai, chú truyền cho cháu. Trẻ trai lên 10 ở làng Ngọc Tiên đã bắt đầu được phụ giúp công việc chuẩn bị hội làng, để rồi tám đến mười năm sau, con thay cha, cháu cùng cùng chú “chung lưng đấu cật” đời đời tiếp nối giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa làng quê.