Trang chủ Lớp 7 Văn lớp 7 Soạn văn 7 - Chân trời sáng tạo siêu ngắn Văn bản Tục ngữ và sáng tác văn chương: Tục ngữ và...

Văn bản Tục ngữ và sáng tác văn chương: Tục ngữ và sáng tác văn chương Tục ngữ không chỉ được sử dụng trong đời sống mà còn xuất hiện trong các sáng tác văn chương

Trả lời Văn bản Tục ngữ và sáng tác văn chương – – Soạn văn 7 Chân trời sáng tạo siêu ngắn. Tục ngữ không chỉ được sử dụng trong đời sống mà còn xuất hiện trong các sáng tác văn chương….

Tục ngữ và sáng tác văn chương

Tục ngữ không chỉ được sử dụng trong đời sống mà còn xuất hiện trong các sáng tác văn chương. Kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam có không ít những câu chuyện đúc kết hay minh họa cho một câu tục ngữ. Khi làm thơ, viết văn, nhiều tác giả cũng sử dụng tục ngữ nhằm làm tăng hiện quả và giá trị biểu đạt cho tác phẩm. Dưới đây là hai ví dụ tiêu biểu:

Nàng Bân

Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Hoàng Hậu thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình. Chồng nàng Bân, cũng là một người trên thế giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo. Nhưng nàng vụng về quá, khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được cái nọ thì thiếu cái kia, xe được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may được đôi cổ tay. Nhiều người trên trời đã chế giễu nàng:

Nàng Bân may áo cho chồng

May ba tháng ròng mới trọn cổ tay

Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng Giêng rồi hết tháng Hai, cho tới khi áo mauy xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng bân buồn lắm. Thấy con âu sầu, Ngọc Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện, Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy hôm để chồng nàng mặc thử áo. Từ đó thành lệ, hằng năm vào khoảng tháng Ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới như có lúc tự nhiên rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét là rét nàng Bân.

Tục ngữ có câu: Tháng Giêng rét đài, tháng Hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân là vì thế.

“Chim trời cá nước…” – xưa và nay

Đoàn Giỏi

Mờ sáng hôm sau, tôi còn đang ngủ trong mui bỗng nghe thằng Cò gọi giật tôi dậy:

– Mau ra coi, An ơi! Gần tới sân chim rồi. Đã sáng bét mà mày còn ngủ à?

Tôi giụi mắt bỏ ra khoang trước, vốc nước dưới sông lên rửa mặt. Trên vệt rừng đen ở chỗ con sông ngoặt như lưỡi cưa cá mập chơm chởm dựng đầu răng nhọn đã ửng lên màu mây hồng phơn phớt. Từ chỗ vệt rừng đen xa tít đó, chim cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ trong lòng quả đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên da trời. Càng đến gần, khi bóng chim chưa hiện rõ hình đôi cánh, thì quang cảnh đàn chim bay lên giống như đám gió bốc tro tiền, tàn bay liên chi hồ điệp.

Những bầy chim đen bay kín trời, vươn cổ dài như tàu bay cổ ngỗng lướt qua trên sông, cuốn theo sau những luồng gió vút cứ làm tai tôi tối lên, hoa cả mắt. Mỗi lúc tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như xóc những rổ tiền đồng. Và gió đưa đến một mùi tanh lợm giọng, khiến tôi chỉ chục buồn nôn ọe.

Chim đậu che nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đen đang vươn tay múa. Chim già đãy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ, to như con ngỗng đậu đến quằn nhánh cây.

Một con điêng điểng ngóc cổ lên mặt nước, thoạt trông tôi tưởng là một con rắn từ dưới nước cất đầu lên. Khi thuyền chúng tôi chèo đến gần, nó bèn ngụp xuống lặn mất. Chốc sau đã lại thấy nó nổi lên gần bờ, mỏ ngậm con tôm xanh gần bằng cổ tay còn đang vụng râu cựa quậy.

Tôi mê quá! Mà thằng Cò cũng mê như tôi. Hai đứa cùng ước: phải chi mình được dừng thuyền lại đây vài hôm để bắt chim thì phải biết!

Chim từ những đâu tập trung về ở đây, nhiều không thể nói được!

Ở đây, còn có rất nhiều giống chim lạ, không thấy bày bán ở chợ Mặt Trời. Chúng đậu thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ nhặt trứng một cách dễ dàng.

Tôi chồm người ra be thuyền, kêu to:

– Dừng lại đây bắt một mớ chim đi, tía!

– Sân chim có chủ, không bắt của người ta được đâu! – Tía nuôi tôi bảo.

– Bộ họ nuôi nó sao? Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn chứ!

– Đúng là không ai nuôi. Nhưng chim về ở trên vùng đất của ai thì nó thuộc về tài sản của người đó. Họ phải đóng thuế hằng năm như đóng thuế ruộng đấy, con ạ.

[…]

Tiếng chim kêu vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền chúng tôi chèo đi hơn ba nghìn thước rồi mà hãy còn thấy chim đậu trắng xóa trên những giành cây gie sát ra sông.