Trang chủ Lớp 6 Văn lớp 6 Đề thi đề kiểm tra Văn lớp 6 - Chân trời sáng tạo Đề thi giữa kì 1 – Đề số 2 Đề thi...

[Đáp án] Đề thi giữa kì 1 – Đề số 2 Đề thi đề kiểm tra Văn lớp 6: Phần I: Văn bản trên mang đặc trưng của kiểu văn bản nào? A. Tự sự B. Miêu tả C. Nghị luận D

Trả lời Đáp án Đề thi giữa kì 1 – Đề số 2 – Đề thi đề kiểm tra Văn lớp 6 Chân trời sáng tạo.

Câu hỏi/Đề bài:

Phần I:

Câu 1:

1. Văn bản trên mang đặc trưng của kiểu văn bản nào?

A. Tự sự

B. Miêu tả

C. Nghị luận

D. Biểu cảm

Hướng dẫn:

Đọc kĩ văn bản, chú ý lời kể, ngôn ngữ

Lời giải:

Văn bản trên mang đặc trưng của kiểu văn bản nghị luận

=> Đáp án: C

2. Trong tiếng Anh, từ nụ cười được tạo nên từ những yếu tố nào?

A. ngọt ngào, tuyệt diệu

B. vô cùng đáng yêu, đằm thắm

C. thành phần phụ quan trọng

D. Tất cả đáp án trên

Hướng dẫn:

Đọc kĩ văn bản

Lời giải:

Trong tiếng Anh, từ nụ cười được tạo nên từ những yếu tố:

– Sweet: ngọt ngào

– Marvellous: tuyệt vời

– Immensely likeable: vô cùng đáng yêu

– Loving: đằm thắm

– Extra special: thành phần phụ quan trọng

=> Đáp án: D

3. Câu văn sau có phải là câu mở rộng vị ngữ không: Nụ cười có thể xua tan mọi đau buồn, hàn gắn mọi vết thương, làm dịu đi nỗi cô đơn và quan trọng hơn hết là mang mọi người đến gần nhau hơn

A. Đúng

B. Sai

Hướng dẫn:

Nhớ lại kiến thức mở rộng chủ ngữ, vị ngữ

Lời giải:

Vị ngữ được mở rộng: xua tan mọi đau buồn, hàn gắn mọi vết thương, làm dịu đi nỗi cô đơn và quan trọng hơn hết là mang mọi người đến gần nhau hơn

=> Đáp án: A

4. Từ “nụ cười” thuộc từ loại nào?

A. Động từ

B. Danh từ

C. Tính từ

D. Quan hệ từ

Hướng dẫn:

Nhớ lại kiến thức về các loại từ

Lời giải:

Từ “nụ cười” thuộc từ loại danh từ

=> Đáp án: B

Câu 2:

Nhan đề của văn bản là gì?

Hướng dẫn:

Nêu suy nghĩ của em

Lời giải:

Nhan đề văn bản: Hãy cười lên

Câu 3:

Theo tác giả, nụ cười đem lại lợi ích gì cho con người?

Hướng dẫn:

Đọc kĩ trong văn bản

Lời giải:

Theo tác giả, nụ cười đem lại lợi ích cho con người: Nụ cười có thể xua tan mọi đau buồn, hàn gắn mọi vết thương, làm dịu đi nỗi cô đơn và quan trọng hơn hết là mang mọi người đến gần nhau hơn.

Câu 4:

Em có đồng ý với ý kiến: Nụ cười là món quà vô giá mà tạo hóa đã hào phóng ban tặng cho con người, nụ cười là thứ tài sản quý giá. Vì sao?

Hướng dẫn:

Nêu suy nghĩ của em

Lời giải:

Em đồng ý vì: Dân gian có câu “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” rất chính xác. Cười là cách đơn giản nhất để giảm stress, giải tỏa căng thẳng. Nụ cười không khác gì “thần dược”, khi bạn cười, cơ thể cảm thấy thư giãn và thoải mái. Nụ cười là gia vị không thể thiếu trong cuộc sống.

Phần II:

Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích

Hướng dẫn:

1. Mở bài: giới thiệu

– Tên truyện: Cây vú sữa.

– Lí do muốn kể lại truyện: Cho em hiểu tình yêu bao la của mẹ và nhắc nhủ em đạo làm con.

2. Thân bài

– Trình bày:

+ Nhân vật: mẹ và cậu bé.

+ Hoàn cảnh xảy ra câu chuyện: mẹ mắng vầ cậu bé bỏ nhà đi.

– Kể chuyện theo trình tự thời gian:

+ Sự việc 1: Mẹ mắng nên cậu bé vùng vằng bỏ đi không về.

+ Sự việc 2: Quá đau buồn và kiệt sức vì nhớ con, mẹ cậu đã mất và hóa thành cây vú sữa.

+ Sự việc 3: Cậu bé bị đói và bị bắt nạt, nhớ mẹ nên đã tìm đường về nhà.

+ Sự việc 4: Về đến nhà không thấy mẹ đâu, chỉ có cây vú sữa.

+ Sự việc 5: Cậu bé ăn trái vú sữa ngọt ngào nhớ đến tình yêu thương của mẹ

+ Sự việc 6: Xóm làng ai cũng thích cây trái vú sữa nên xin hạt về trồng và đặt là cây vú sữa.

3. Kết bài: Cảm nghĩ về truyện vừa kể: cảm thấy biết ơn và kính trọng mẹ nhiều hơn.

Lời giải:

Truyện cổ tích chính là suối nguồn mát lành về lòng nhân hậu và những bài học làm người bao la. Hòa trong dòng chảy mát lành ấy, có tác phẩm Cây vú sữa là câu chuyện khiến em nhớ mãi về sự hi sinh của đấng sinh thành.

Ngày xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng cậu về. Một thời gian trôi qua mà cậu vẫn không về. Vì quá đau buồn và kiệt sức, mẹ cậu gục xuống và hóa thành một cái cây.

Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ. “Phải rồi, khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bên mình, về với mẹ thôi.” Cậu liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ:

– Mẹ ơi, mẹ đi đâu rồi, con đói quá! – Cậu bé gục xuống, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc.

Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Cây nghiêng cành, một quả to rơi vào tay cậu bé. Cậu bé cắn một miếng thật to. Chát quá! Quả thứ hai rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một dòng sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ.

Cây rung rinh cành lá, thì thào:

– Ăn trái ba lần mới biết trái ngon. Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ.

Cậu oà lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ôm lấy thân cây mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.

“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ”. Câu chuyện về cây vú sữa đã gửi gắm đến chúng em bài học về đạo làm con và công ơn trời biển của đấng sinh thành. Cảm ơn vườn cổ tích, cảm ơn những câu chuyện nhân văn đã dạy dỗ chúng em nên người trong suốt hành trình lớn lên.