Trả lời Mẫu 2 Phân tích nhân vật Bá Kiến – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.
Câu hỏi/Đề bài:
Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao đã tái hiện lại hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước cách mạng qua bức tranh làng Vũ Đại. Bức tranh hiện thực ấy không chỉ khắc họa người nông dân hiền lành bị lưu manh, tha hóa mà còn nổi bật lên những con người thuộc tầng lớp thống trị tàn ác, tiêu biểu là nhân vật bá Kiến. Bên cạnh hai nhân vật Chí Phèo và thị Nở, nhân vật bá Kiến cũng để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng riêng biệt.
Tác phẩm “Chí Phèo” được Nam Cao sáng tác năm 1941 với nhan đề là “Cái lò gạch cũ”, đến năm 1946, khi in trong tập “Luống cày” tác giả lấy tên nhân vật chính để đặt lại tên cho tác phẩm. “Chí Phèo” là lời tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người đến bờ vực thẳm, không còn một con đường sống để quay về với bản chất lương thiện. Đồng thời, truyện ngắn này cũng là lời tố cáo sự xảo quyệt, gian manh của tầng lớp thống trị.
Bá Kiến là nhân vật điển hình cho giai cấp thống trị ở xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Cụ bá xuất thân trong một gia đình có truyền thống làm lí trưởng, chánh tổng. Chính cụ cũng làm từ chức lý trưởng, chánh tổng rồi đến chức “bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hòa, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện”. “Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất đinh này làm được thế”? Uy quyền của cụ bá khiến dân làng và bọn lưu manh ai cũng nể sợ. Ngay cả Chí Phèo, khi đến nhà bá Kiến đòi món nợ máu cũng có suy nghĩ “dại gì mà vào miệng cọp”.
Bản chất của con người bá Kiến thể hiện qua các thủ đoạn trị dân. Thứ nhất cụ sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ “cố cùng liều thân”. Bá Kiến lấy kẻ đầu bò để trị thằng đầu bò, thực hiện chính sách “trị không được thì cụ dùng”, “mềm nắn rắn buông”, “nắm thằng có tóc chứ không ai nắm kẻ trọc đầu”. “Cụ nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò”? Những chính sách cai trị ấy đã bộc lộ bá Kiến là một kẻ nham hiểm, gian hùng, thâm độc. Làng Vũ Đại được ví như mảnh đất “quần ngư tranh thực”, các phe cánh đối đầu nhau và cụ lấn át được những vây cánh khác bởi cụ biết “thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù” vì chúng là “những thằng được việc”.
Đó còn là một kẻ ném đá giấu tay khi ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông sau đó kéo người ta lên để chờ đợi sự hàm ơn. Cụ “đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hào vì thương anh túng quá”. Năm Thọ là tên là một thằng đầu bò “kình nhau” với bá Kiến ra mặt nhưng cụ bá chưa có chưa có dịp để trị hắn. Nhân việc hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt giam bá Kiến ngấm ngầm vận động cho vào tù. Bá Kiến vui vì đã nhổ được cái đinh trong mắt.
Bá Kiến tàn ác và đểu cáng làm sao khi đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường tội lỗi. Từ một anh canh điền hiền lành, Chí Phèo bị đẩy vào tù do cơn ghen vô cớ của bá Kiến. Sau khi ra tù, hắn trở thành tay sai đắc lực cho cụ và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại để đến khi muốn quay lại làm người lương thiện chỉ còn cách tự sát.
Bá Kiến vô cùng ranh mãnh. Cụ bá đã giải quyết mọi chuyện êm đẹp khi Chí Phèo đến nhà đòi món nợ máu. Cụ giải tán dân làng đang xúm lại trước cổng để tìm cách đối phó với tên cố cùng liều thân này. Cụ hỏi thăm Chí “về bao giờ”, sao không vào cụ chơi và dỗ dành ngon ngọt rằng Chí và lí Cường có họ với nhau để Chí Phèo”nguôi nguôi” rồi biến hắn trở thành tay sai cho mình. Chỉ với những lời dụ dỗ đó và cho Chí Phèo ít tiền uống rượu mà bá Kiến có một tay sai ngoan ngoãn lại rất được việc. Bá Kiến sai Chí đi đòi tiền đội Tảo vì nếu hắn trị được đội Tảo thì tốt và nếu hắn “bị đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì” vì đằng nào thì cụ cũng là người được lợi.
Không chỉ có vậy, bá Kiến còn là con người dâm ô, đồi bại. Mặc dù có đến bốn người vợ nhưng bá Kiến không thể bỏ lỡ món lợi ở trước mắt. Cụ Bá ngồi chung xe và ở lại tỉnh cùng vợ Binh Chức mỗi lần chị Binh “đi lĩnh lương hay lĩnh măng đa của chồng” nhờ cụ đi nhận thực. “Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù” khi nghĩ về bà tư rồi ghen bóng gió. Bà ta “đĩ lắm”, gần 40 tuổi rồi mà trông vẫn còn trẻ và “phây phây”, lại đa tình.
Tiếng cười nhạt nhưng giòn giã của bá Kiến thể hiện một con người đểu cáng và thủ đoạn. “Người ta bảo cụ hơn người cũng bởi cái cười” quả không sai. Đây chính là nét riêng của bá Kiến. Nếu không phải con người thủ đoạn thì cụ bá không có những đòn trị dân thâm hiểm đến vậy. Nếu là một con người chân chính thì bá Kiến đã không có thói dâm ô và đẩy người khác vào con đường tội lỗi.
Cuối cùng, bá Kiến cũng phải trả giá cho những hành động của mình. Một kẻ “khôn róc đời” như cụ bá lại bị tên tay sai Chí Phèo dùng dao chém túi bụi. Nhưng nhân dân vẫn còn lo sợ vì quy luật “Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác”. Bá Kiến chết đi nhưng vẫn còn những kẻ thống trị khác và cuộc sống của nhân dân vẫn lầm than, khổ cực. Cái chết của bá Kiến cũng không làm cho Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ quay trở về con đường lương thiện.
Có thể thấy bá Kiến mang tính chất điển hình cho giai cấp thống trị ở làng quê Việt Nam trước cách mạng. Đồng thời, nhân vật cũng có những nét riêng biệt, không giống các cường hào khác. Nhà văn Nam Cao không chú trọng việc miêu tả ngoại hình nhân vật nhưng thông qua những chi tiết, việc làm của bá Kiến ta có thể thấy rõ được tính cách nhân vật. Nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả đã đạt đến đỉnh cao. Vì thế mà nhà văn Lê Đình Kỵ đã đưa ra nhận định: “Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc soi mói như của Nam Cao”.
Qua nhân vật bá Kiến, Nam Cao đã lên tiếng tố cáo sự tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị, bên cạnh đó nhà văn cũng lên tiếng đòi quyền sống, quyền được làm người lương thiện của nhân dân. Những điều đó đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm. Nhắc đến giai cấp thống trị ở làng quê Việt Nam chúng ta không chỉ nhắc đến Nghị Hách, Nghị Quế mà còn nhắc đến bá Kiến – một con người mưu mô, xảo quyệt, nham hiểm, tàn ác và ranh mãnh.