Trang chủ Lớp 11 Văn lớp 11 Văn mẫu 11 Kết nối tri thức Câu tham khảo Mẫu 3 Viết bài văn Nghị luận về vấn...

Câu tham khảo Mẫu 3 Viết bài văn Nghị luận về vấn đề thi cử đối phó thông qua tác phẩm Tiến sĩ giấy Văn mẫu 11 Kết nối tri thức: Bài thơ được sáng tác vào cuối thế kỉ XX, dưới chế độ thực dân, nền văn hóa Nho học lụi tàn

Đáp án Câu tham khảo Mẫu 3 Viết bài văn Nghị luận về vấn đề thi cử đối phó thông qua tác phẩm Tiến sĩ giấy – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Bài thơ được sáng tác vào cuối thế kỉ XX, dưới chế độ thực dân, nền văn hóa Nho học lụi tàn, các kì thi thời bấy giờ vô cùng mục nát. Đứng trước thực trạng này, danh nho Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ này. Mở đầu tác phẩm tác giả đã miêu tả sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người, được so sánh với các yếu tố như cờ, biển và cân đai. ‘’Cũng cờ cũng biển cũng cân đai”: Từ ngữ này sử dụng các yếu tố như cờ, biển và cân đai để ám chỉ sự quyền lực, uy quyền hoặc sự địa vị xã hội. Câu thơ sử dụng từ “cũng” để nhấn mạnh sự tương đồng.”Ông Nghè” là một người có quyền lực, địa vị cao trong xã hội. Câu thơ này có thể miêu tả sự tương đồng, sự đồng nhất giữa các yếu tố như cờ, biển và cân đai, và sự tương đồng này cũng ám chỉ sự quyền lực, uy quyền hoặc sự địa vị xã hội. Câu thơ cũng nhấn mạnh sự không thể vượt qua, không thể sánh bằng của ông Nghè, ngụ ý rằng ông Nghè là một người có địa vị, quyền lực và không ai có thể vượt qua hay sánh bằng. Câu thơ miêu tả về sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người trong xã hội, đồng thời nhấn mạnh sự không thể vượt qua, không thể sánh bằng của ông Nghè.

‘’Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.’’

Nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. “Mảnh giấy” đối với “thân giáp bảng”, “nét son” đối với “mặt văn khôi”. “Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng’’.Thân giáp bảng có thể hiểu là bề mặt của bảng, nơi mà những điều quan trọng được ghi chú và truyền đạt. ‘’Nét son điểm rõ mặt văn khôi” ám chỉ sự trang trọng, quý phái của một tấm giấy được sử dụng để làm giáp bảng hoặc viết văn bản quan trọng. Đoạn thơ này có thể miêu tả sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người, được so sánh với các yếu tố như cờ, biển và cân đai. Ông Ghè có vẻ ngoài của một tiến sĩ thực thụ nhưng kiến thức thực sự của ông lại nhẹ như một tờ giấy và một nét son. Qua đó, ta thấy nhà thơ đã bộc lộ rõ nét một chế độ giáo dục mục ruỗng. Ông đã cảm nhận tiến sĩ chỉ như mảnh giấy, nét son. Bởi mảnh giấy và nét son được sử dụng để tạo ra một hình ảnh trang trọng, quý phái, nhưng sâu bên trong thì vô cùng ngu ngốc, không còn một chút tài đức nào.

‘’Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời’’

Đoạn thơ này có hai câu: Câu thứ nhất đặt câu hỏi: Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Đây có thể là một câu hỏi đặt ra để thể hiện sự ngạc nhiên hoặc sự kinh ngạc về sự nhẹ nhàng, thoải mái của tấm thân xiêm áo. Tấm thân xiêm áo có thể được hiểu là một biểu tượng cho cuộc sống đơn giản, không phức tạp. “Cái giá khoa danh ấy mới hời” có thể được hiểu là giá trị của danh vọng, uy tín, danh tiếng chỉ là một cái giá rẻ. Điều này có thể ám chỉ rằng danh vọng và danh tiếng không đáng giá bằng những giá trị khác trong cuộc sống. Đoạn thơ nhấn mạnh sự giản dị và giá trị thực sự của cuộc sống, đồng thời phê phán sự quan trọng quá mức đối với danh vọng và danh tiếng. Đến hai câu cuối, sự mỉa mai của bài thơ mới thực sự đạt đến đỉnh điểm, phá hủy sự thật và sự giả dối của câu trước:

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!’’

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe” mô tả một hình ảnh về việc ngồi trên một chiếc ghế chéo lọng màu xanh, và người ngồi được mô tả là “bảnh chọe”, “Ghế treo lọng xanh” có thể. Cụm từ “bảnh chọe” có thể ám chỉ sự thoải mái, thoải mái, hoặc sự tươi trẻ, tinh tế. Câu thứ hai nói về việc nghĩ rằng “đồ thật hoá đồ chơi. “Đồ chơi” ở đây có thể đại diện cho những thứ nhẹ nhàng, không quan trọng, trong khi “đồ thật” là những điều quan trọng, nghiêm túc. Đoạn thơ này có thể là một lời nhắc nhở về việc giữ cho cuộc sống và giá trị thực của chúng ta không bị mất đi nhất là thời kì công nghệ đang phát triển, nơi mà đôi khi sự giả mạo có thể che đậy giá trị thực sự.

Bài thơ “Tiến sĩ giấy” đã đóng góp cho xã hội Việt Nam lúc bấy giờ trong việc khơi dậy nhận thức xã hội và đấu tranh cho sự công bằng, bình đẳng. Đây cũng là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Nguyễn Khuyến và được coi là biểu tượng của phong trào cải cách xã hội, giáo dục trong lịch sử Việt Nam.