Trang chủ Lớp 11 Văn lớp 11 Văn mẫu 11 Kết nối tri thức Bài tham khảo Mẫu 3 Phân tích truyện ngắn “Vợ Nhặt” của...

Bài tham khảo Mẫu 3 Phân tích truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân Văn mẫu 11 Kết nối tri thức: Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam

Trả lời Bài tham khảo Mẫu 3 Phân tích truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân. – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc, có tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học hiện đại nước nhà thế kỷ XX. Trong số gia tài các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân, Vợ Nhặt là một trong số những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất khi nói về số phận người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1944-1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tuy nhiên Kim Lân không như những cây bút hiện thực cùng thời, đi sâu vào hiện thực tàn khốc của xã hội, mà trái lại tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.

Nói về Vợ nhặt Kim Lân từng chia sẻ “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Thật vậy Vợ nhặt của Kim Lân là một câu chuyện với tình huống truyện đặc biệt, được xây dựng trên một cái nền cũng đặc biệt không kém khi tất cả khởi nguồn từ một mối hôn nhân kỳ lạ, không mai mối của anh Tràng. Anh tình cờ “nhặt” được vợ trong một lần đi đẩy xe bò thuê, cái sự kiện kỳ lạ đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng, người chết đói la liệt đầy đường, không khí ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp làng quê. Con người nhếch nhác, thảm hại dìu dắt bồng bế nhau đi khắp các nẻo đường với những hình dung ám ảnh, kẻ sống thì “xanh xám như bóng ma”, người thoi thóp “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, còn “người chết như ngả rạ”, … Đêm xuống “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, cả làng xóm không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ, khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, âm thanh thiểu não của “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cảnh tượng khủng khiếp ấy Kim Lân không chủ ý nhấn mạnh hay tập trung trong suốt chiều dài tác phẩm mà chỉ đôi lần lướt qua, để lại một vài câu chữ để, nói lên cái hiện thực tàn khốc đang đeo bám lấy từng số phận con người khốn khổ.

Trong cái viễn cảnh kinh hoàng ấy, khi từng con người đang dò dẫm tiến dần tới nghĩa địa, run rẩy bất lực trước lưỡi hái của tử thần thì lại có một đám cưới kỳ lạ diễn ra, một tổ ấm mới được dựng lên với tất cả niềm tin, hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Chủ nhân của gia đình ấy chính là Tràng, thị và bà cụ Tứ những con người với những phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sẵn sàng vượt lên trên thực tại khó khăn để hướng về một cuộc sống tươi sáng hơn.

Nói về nhân vật Tràng, anh sinh ra vốn dĩ đã thiệt thòi, gia cảnh nghèo khó, diện mạo lại xấu xí, tính tình thì có phần ngờ nghệch, vô tư quá mức. Tràng là người dân ngụ cư, sống cảnh tha hương cầu thực, không ruộng đất, hàng ngày sống bằng nghề kéo xe bò thuê, trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả. Thêm nữa chính do cái xấu xí, nghèo đói mà Tràng mãi chẳng thể có được một tổ ấm riêng, cứ mãi lẻ loi đơn chiếc, vật lộn với cái đói, cái khổ. Là người dân ngụ cư nên Tràng không được cái quyền xuất hiện trong các buổi hội họp thôn xóm, sống cảnh bị xa lánh, coi thường, cuộc đời vừa thảm hại vừa đáng thương vô cùng. Tuy nhiên không vì thế mà Tràng nhụt chí, chán nản, trái lại anh vẫn luôn chăm chỉ lao động, kiếm sống, chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà.

Nạn đói ập đến, Tràng sống khó khăn hơn trước, nhưng cũng chính cái nạn đói ấy đã trở thành cơ duyên cho anh gặp thị, rồi nên duyên với nhau chỉ bằng 4 bát bánh đúc. Trong cuộc gặp gỡ tiền định ấy, trước hết ta thấy được một vẻ đẹp rất đáng quý của nhân vật Tràng. Anh là người nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu biểu nhất là thị, một người đàn bà vì đói sắp chết mà bất chấp sĩ diện, liêm sỉ đòi ăn. Trước cái cảnh cong cớn, sưng sỉa trách móc của thị vì anh lỡ đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” thì Tràng chẳng hề khó chịu, bực dọc, trái lại anh sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị an no một bữa tận 4 chén bánh đúc. Ngay trong lúc nạn đói hoành hành, người ta phải lo từng miếng ăn, thì cái tấm lòng hào phóng của Tràng quả thực đáng quý vô cùng.

Ấy rồi từ tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, Tràng đã dần chuyển sang sự xót xa, thương cảm cho người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa và cũng sắp bước đến đường cùng trước mắt. Lòng nhân hậu đã khiến anh muốn được che chở, chăm sóc, thành thử trong giây phút Tràng đã thốt ra lời “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó có thể xem là một lời cầu hôn, tuy không lãng mạn nhưng lại vô cùng quý giá và ý nghĩa, nhất là trong thời điểm người ta cần có nhau để nương tựa qua nạn đói, trở thành cọng rơm cứu mạng của thị. Ấy rồi, thị nhận lời chính thức trở thành vợ Tràng, một người vợ nhặt, không mối mai sính lễ.

Lúc này đây, Tràng dường như trưởng thành hơn, những nét đẹp trong tâm hồn anh lại càng được thể hiện rõ nét, Tràng biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới cưới, anh dẫn thị vào chợ tỉnh ăn một bữa no nê, rồi lại dẫn thị đi mua một cái thúng nhỏ, với vài món đồ lặt vặt để thị về nhà chồng cho đỡ ngượng ngùng. Đó là một sự tinh tế, thấu hiểu và bao dung hiếm có mà không phải bất kỳ một ai, một người đàn ông nào cũng có thể có được. Để mừng cho tân hôn, Tràng không tiếc bỏ ra hai hào để mua dầu về thắp sáng trong nhà, cố gắng cho thị một ngày cưới tuy không đầy đủ nhưng cũng có được những phần tươi sáng, vui vẻ, tạm xua đi những cái tối tăm, mệt nhọc đang chờ phía trước.

Trên đường dẫn thị về nhà, tâm trạng của Tràng tràn đầy những cảm xúc phấn khởi và hạnh phúc “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh vui sướng đến độ “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể nói rằng cái đám cưới kỳ lạ với thị là bước ngoặt lớn của đời Tràng, mở ra cho anh một cánh cửa mới, một con đường mới, đem đến một làn gió tươi sáng và tràn đầy hy vọng trong tâm hồn chàng trai trẻ, dù rằng tương lai phía trước còn nhiều chông gai. Đến khi đưa thị về nhà giới thiệu với mẹ, lòng Tràng không tránh khỏi những cảm xúc lo lắng, sốt ruột, anh thưa chuyện với mẹ bằng một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng mong mẹ xuôi lòng. Điều đó cho thấy rằng Tràng đang rất trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn vẹn, tràn ngập yêu thương, để anh cũng như bao người đàn ông khác được làm chồng làm cha, bước vào một cuộc đời mới lắm thách thức nhưng cũng nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc.

Sau đêm tân hôn, Tràng dường như thay đổi hẳn, trưởng thành, chững chạc và nhận thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia đình, anh vừa cảm thấy hạnh phúc vừa cảm thấy bản thân có trách nhiệm phải xây dựng gia đình êm ấm, mang lại hạnh phúc cho vợ con, nuôi sống gia đình. Điều ấy thể hiện rõ ràng trong suy nghĩ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” đồng thời Tràng lập tức biến nó thành hành động khi “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”. Trong bữa cơm đón dâu mới, Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai của Tràng và của cả rất nhiều những người nông dân khác, nhằm giải thoát cho chính bản thân khỏi nạn đói kinh hoàng, khỏi sự áp bức của kẻ thù.

Đối với nhân vật thị, sự xuất hiện của người phụ nữ này dường như lúc đầu đã không gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì miếng ăn. Thế nhưng đi sâu vào thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị trái lại người ta lại thấy thương xót nhiều hơn, thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, ngay cái lúc ấy người ta chỉ mong được sống, khao khát sống đến mãnh liệt, bằng mọi giá phải sống. Chính lẽ đó khi bắt được cơ hội đẩy xe bò để được ăn, thị đã không chần chừ bất chấp cái thân thể tàn tạ, còn chút hơi sức. Nhưng Tràng thế mà lại quên đi mất lời đùa của mình, thành thử thị tưởng mình bị lừa, thị buồn, thị xót cái công sức và ấm ức vì cuộc đời khốn khổ sắp đến hồi kết. Những cái lúc ấy sao người ta còn có thể bình tĩnh, mà không sưng sỉa cong cớn lên cho được, ấy rồi nhờ vậy mà thị được ăn, được sống, thậm chí có cả một người chồng, một mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp.

Thị trở thành người vợ theo không, không mối mai, không cỗ bàn, không đồ sính lễ, tủi nhục, thế nhưng trong cái hoàn cảnh ấy thị dù tủi hổ, nhưng cái thị cần nhất vẫn là được sống, thị cần một chỗ dựa, một mái ấm để nương vào, để thoát khỏi cái cảnh bèo dạt của mình. Khi về nhà chồng, thị bỗng thay đổi thành một con người khác, tận mắt chứng kiến cái “nhà” thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại, thế nhưng người đàn bà ấy chẳng hề tỏ ra sự thất vọng, ảo não trong lòng, mà trái lại vẫn tiếp tục cùng Tràng vào nhà đợi mẹ chồng về.

Thị trở nên khép nép, lễ phép, không còn cái vẻ đanh đá, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng, trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị dịu dàng, yên lặng lắng nghe, và tiếp thu, sẵn sàng cùng Tràng xây dựng một mái ấm với những niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng. Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn nhà cửa, vườn tược, gánh nước, hong khô đồ,… đã mang đến hình ảnh đẹp của một người phụ nữ biết vun vén, tần tảo, hy sinh, đang cố gắng từng ngày để xây dựng cuộc sống mới ấm êm, hoàn toàn rũ bỏ cái cảnh lay lắt, lang thang đầu đường xó chợ.

Một nhân vật ấn tượng và đáng chú ý nữa trong truyện chính là bà cụ Tứ, nhân vật đại diện tiêu biểu nhất cho một thế hệ người phụ nữ Việt Nam thế kỷ trước. Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, có cuộc đời nhiều đắng cay vất vả, một tay vất vả nuôi anh Tràng khôn lớn, cho đến lúc già cả lại phải chịu cảnh trở thành dân ngụ cư, lang bạt nơi xứ người, chịu cảnh đói kém hành hạ. Không chỉ chịu những nỗi khổ về thể xác, bà cụ Tứ còn luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân nghèo quá không thể lo nổi cho người con trai một tấm vợ tử tế, phải nhìn cảnh con mình khổ sở, đơn độc mưu sinh.

Ở nhân vật này ta thấy hiện lên rõ nét nhất ấy là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi thấy anh Tràng dẫn một người đàn bà lạ mặt về nhà, bà không vội vã dò xét, tra hỏi mà trái lại bà để cho con trai mình tự lên tiếng, sau khi hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự, bà chẳng trách con tự tiện quyết định chuyện hôn nhân mà cái bà cụ lo lắng nhiều nhất lại là “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”. Lòng người mẹ vẫn muôn đời suy nghĩ cho con, thấy anh Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, làng xóm tràn ngập một màu u ám, tiêu điều, lòng cụ Tứ lại càng thêm nhiều đau xót. Xót con vì nghèo khó mà chẳng có được một đám cưới tử tế, xót con vì phải cưới vợ trong cái cảnh sống hôm nay mà chẳng biết được ngày mai, cũng lại xót xa cho chính cuộc đời làm mẹ mà chẳng thể làm gì để con mình được sung sướng đầy đủ. Thế rồi sau tất cả những bộn bề suy nghĩ, lo toan, lòng cụ Tứ dần lắng lại, cụ sốc lại tinh thần, giấu nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối duyên của các con. Bà cũng hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, tạo lập cho họ động lực, lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trong nay mai, chỉ cần họ cố gắng hết sức, cùng nhau vượt qua khó khăn, vượt qua được nạn đói kinh hoàng này.

Bên cạnh tấm lòng thương yêu con sâu sắc, cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu, bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu biểu nhất là thị, người con dâu mới cưới. Khi nhìn đến người đàn bà với bộ dạng tả tơi, thảm hại, đang rụt rè đứng đợi sự chấp nhận của bà, lòng bà bỗng dấy lên nhiều những nỗi niềm thương cảm, nghĩ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà vội giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện không thể làm dăm ba mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và thông cảm cho những nỗi khó khăn của mẹ con bà, mà thương yêu lấy Tràng. Đối với bà chỉ cần vợ chồng Tràng sống với nhau hạnh phúc “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, rồi nhìn lại cái cảnh đói kém mà lòng nặng trĩu những nỗi lo lắng, thương cảm về cuộc đời của Tràng và thị.

Bà cụ Tứ còn hiện lên với vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, trở thành người truyền động lực, cảm hứng cho con trai và con dâu, giúp họ có thêm sức mạnh, niềm tin vào một cuộc đời khấm khá và bớt khó khăn hơn trong tương lai. Điều đó được bộc lộ rất rõ thông qua cảnh bà động viên vợ chồng Tràng lúc mới về, và cả trong cái cảnh bữa cơm sáng bà cụ liên tục kể những câu chuyện vui, kể chuyện là ăn, nuôi gà,… Dù rằng những dự định, những mong ước ấy có vẻ khá xa xôi và khó khăn để thực hiện, thế nhưng nó vẫn đem đến cho câu chuyện những tia sáng ấm áp, xua tan bớt cái sự thảm hại, u ám, tiêu điều của làng quê trong nạn đói kinh hoàng, cũng mở ra cho các nhân vật những con đường mới mẻ, đầy hy vọng.

Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi viết về số phận của người nông dân giai đoạn trước cách mạng, đặc biệt là trong nạn đói kinh hoàng. Đối với tác phẩm này, có thể tóm lược bằng mấy câu “Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy”. Cả Tràng, thị và bà cụ Tứ đều là những nạn nhân khốn cùng của nạn đói, cũng đứng trước những ám ảnh về cái chết đang tới gần, thế nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn cố sống từng ngày, họ vẫn xây dựng gia đình, vẫn cùng nhau cố gắng, suy nghĩ về chuyện tương lai, và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua được cái đói. Đó chính là ý nghĩa nhân văn sau cùng mà Kim Lân muốn truyền tải, dù trong hoàn cảnh khốn cùng nào thì con người ta vẫn luôn lóe lên những tia sáng của phẩm hạnh tốt đẹp, chúng không bị chôn vùi bởi thực tại mà càng vì thực tại mà trở nên rõ nét hơn.