Trang chủ Lớp 11 Văn lớp 11 Văn mẫu 11 Kết nối tri thức Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của...

Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Văn mẫu 11 Kết nối tri thức: Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945

Giải Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ được Kim Lân khắc họa trong tác phẩm là một phụ nữ nông dân nghèo khổ. Ngay từ cái tên, người đọc đã thấy được về xuất thân của nhân vật. Sống trong xã hội Việt Nam xưa cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả. Cả cuộc đời bà mưu sinh cực nhọc để nuôi con. Đến khi già cả vẫn không được hưởng cuộc sống sung sướng, mà lại phải chịu cảnh đói kém hoành hành. Nhân vật không xuất hiện từ đầu tác phẩm mà chỉ đến khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, nhà văn mới khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Đó là hình ảnh của một bà lão, dáng đi thì chậm chạp, đôi mắt kèm nhèm. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán một cái gì đó.

Nhưng đặc biệt hơn cả là tình mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ. Điều đó được thể hiện qua tình huống Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà. Khi nhìn thấy có người lạ mặt trong nhà, trong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc. Những câu hỏi liên tiếp vang lên trong suy nghĩ của bà: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Rồi bà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích. Đến khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng. Những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ. Nhưng đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng cũng đã đến tuổi dựng vợ. Thương con, bà lại càng xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Việc lấy vợ trọng đại cả đời, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” – đó phải chăng là sự mặc cảm của người mẹ khi không thể lo cho con tử tế.

Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ lại còn thương cả con dâu. Điều đó đã thể hiện một tấm lòng nhân văn sâu sắc. Bà đồng cảm với hoàn cảnh của cô vợ nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Bà còn an ủi con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này…”.

Nhưng hiện thực cuộc sống khiến bà không khỏi lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”, “bà nghẹn lời không nói được nữa”. Đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của một người mẹ.

Không chỉ vậy, bà cụ Tứ còn là người truyền ngọn lửa niềm tin vào tương lai đến các con. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ. Dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với “mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng” thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ sau này. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Tấm lòng của một người mẹ cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên các con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.

Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa. Cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù sống trong sự nghèo khó thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành điểm sáng tinh thần cho những đứa con.