Trang chủ Lớp 11 Văn lớp 11 Văn mẫu 11 Kết nối tri thức Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích nhân vật Thị nở Văn...

Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích nhân vật Thị nở Văn mẫu 11 Kết nối tri thức: “Chao ôi! Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia

Hướng dẫn giải Bài tham khảo Mẫu 1 Phân tích nhân vật Thị nở – Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

“Chao ôi! Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia,thoát ra từ kiếp lầm than”. Ấy là tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép của Nam Cao – cây bút hiện thực xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945. Với quan điểm đó, Nam Cao viết nhiều về tầng lớp nông dân với những bi kịch cuộc sống. Nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” chính là điển hình cho những con người cùng khổ.

Thị Nở hiện lên trước hết ở chân dung xấu xí. Cái xấu ấy được Nam Cao miêu tả là “Ma chê quỷ hờn”. “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành”. Không chỉ thô kệch về ngoại hình, Thị Nở còn vừa nghèo vừa ngớ ngẩn. Cái nghèo đeo bám Thị Nở. Công việc gánh nước thuê chỉ đủ kiếm sống qua ngày. Không chồng, không con, lại ở với người cô già nên Thị Nở cũng không được ai yêu thương. Dường như tạo hóa đã dành những phần vụng về, thừa thãi nhất để tạo ra thị . Nam Cao ít khi miêu tả kỹ lưỡng ngoại hình nhân vật nhưng ở đây, nhà văn đã dụng công khắc họa chân dung Thị Nở để làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn đáng trọng.

Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau là cái duyên. Hai kẻ đứng bên lề xã hội, chịu đựng sự ghẻ lạnh từ người ngoài đã tìm thấy ánh sáng nơi nhau. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Chí Phèo và Thị Nở bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp. Ở Thị Nở, ta tìm thấy sự lương thiện, trong sáng. Thị thản nhiên gánh nước trên lối nhỏ qua vườn nhà Chí và còn vô tư nằm ngủ trong cái chòi rách của hắn. Ban đầu, thị còn giật mình, sợ hãi vì sự xuất hiện của Chí. Thị la làng. Chí Phèo thấy thế bèn lấy làm lạ, hắn cũng la lên vì ở làng Vũ Đại, làm gì có ai dám tranh la làng với hắn. Thế rồi, Thị Nở cũng bật cười. Chúng cười với nhau và say ngủ bên nhau. Có thể thấy, chính sự ngờ nghệch, hồn nhiên của Thị Nở đã kéo hai người lại gần nhau hơn. Trong khi mọi người ghê tởm, xa lánh Chí Phèo thì thị vẫn đi qua vườn nhà Chí, thậm chí có lần còn xin hắn ít rượu thuốc đem về. Thị không hiểu sao người ta lại ghê hắn đến vậy. Thị Nở đã nhìn ra những điều khuất lấp đáng thương ở con quỷ của làng Vũ Đại.

Thị Nở còn là người phụ nữ có tấm lòng nhân hậu, giàu tình thương. Sau đêm ăn nằm với Chí, Thị Nở không bỏ đi mà còn ở lại chăm sóc Chí Phèo khi hắn gặp trận ốm nặng. Từng cử chỉ, hành động của thị dù giản đơn nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn với Chí. Thị đắp cho hắn manh chiếu, về nhà kiếm ít hành nấu cho hắn bát cháo. Bát cháo hành là hiện thân của đức hi sinh, sự cảm thông, tình yêu thương thuần khiết. Chí Phèo cảm động một cách kì lạ vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Bao nhiêu khát khao hạnh phúc về gia đình ấm êm lại ùa về trong Chí. Chỉ nhờ bát cháo hành mà Thị Nở đánh thức sự lương thiện tưởng như đã mất của Chí Phèo. Từ đó, Chí thấy cuộc đời xung quanh trở nên đẹp hơn, hắn mong muốn quay lại làm người một cách đúng nghĩa.

Khát khao hạnh phúc không chỉ tồn tại ở Chí mà còn xuất hiện ở chính Thị Nở. Thị cũng khát khao được yêu thương, trân trọng. Thị nghiêm túc suy nghĩ về việc xây dựng một gia đình nhỏ với Chí Phèo. Tình yêu khiến cho con người đẹp lên. Thị không còn là người đàn bà dở hơi, Chí không còn là kẻ rạch mặt ăn vạ. Những ngày tháng ấy là những ngày đẹp đẽ, mơ mộng nhất cuộc đời Thị Nở.

Như những nhân vật điển hình trong sáng tác của Nam Cao, ở Thị Nở vẫn tồn tại sự mâu thuẫn, giằng xé khi đấu tranh cho tình yêu. Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ. Cuộc tình ấy kéo dài đến ngày thứ sau thị bỗng nhớ ra hôm nay người cô sẽ về. Thị phải “dừng yêu” để thưa chuyện với bà cô. Ai dè, thứ thị nhận được là lời độc địa: “Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!”. Điều ấy khiến Thị Nở tức giận nên thị trút lên Chí Phèo tất cả lời bà cô rồi ngoáy ngoáy mông đít đi ra về. Chí Phèo đuổi theo thị, nắm lấy tay để níu giữ tình yêu nhưng Thị Nở vẫn bỏ đi như quên hết mọi thứ. Tác phẩm kết thúc một cách bi kịch bằng cái chết của Chí Phèo và hình ảnh cái lò gạch cũ bỗng xuất hiện trong tâm trí Thị Nở.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, tình huống truyện gay cấn, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở. Dù tác phẩm có một kết thúc đau thương nhưng không thể phủ nhận những phẩm chất đáng trọng ở Thị Nở. Thị là người phụ nữ giàu tình thương, trong sáng, biết cảm thông. Bất chấp ngoại hình xấu xí hay sự gàn dở trong đầu óc, Thị Nở vẫn là nguồn sáng lấp lánh vụt qua cuộc đời Chí Phèo.

Từ nhân vật Thị Nở, Nam Cao bày tỏ niềm thương cảm trước cuộc đời khổ sở về cả thể xác lẫn tinh thần của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đồng thời, nhà văn thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ. Tác phẩm còn là lời tố cáo đanh thép tội ác của bọn thực dân phong kiến.