Phân tích, đưa ra lời giải Phân tích văn bản Sơn Đòong – thế giới chỉ có một – Bài 4: Nét đẹp văn hóa và cảnh quan – Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo. Đất nước ta may mắn được tạo hóa ban tặng rất nhiều danh lam thắng cảnh. Trong thời hiện đại,…
Đất nước ta may mắn được tạo hóa ban tặng rất nhiều danh lam thắng cảnh. Trong thời hiện đại, những cảnh sắc thiên nhiên còn trở thành nơi thu hút khách du lịch, đóng góp cho sự phát triển kinh tế của đất nước.Hang Sơn Đoòng nằm trong quần thể di tích Phong – Nha chính là một kì quan thiên nhiên nổi bật. Bài viết “Sơn Đoòng – Thế giới chỉ có một” sẽ cung cấp cho ta những thông tin về đặc điểm tự nhiên và cách khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này một cách đúng đắn.
Nhan đề “Sơn Đoòng – Thế giới chỉ có một” đã cho thấy nội dung chính của văn bản chính là cung cấp những thông tin về hang Sơn Đoòng để chứng minh đây là kì quan “Có một không hai” và đưa ra hướng bảo tồn, phát huy hang động này. Sơn Đoòng đã giấu kín vẻ đẹp của mình trong núi rừng hoang sơ, hùng vĩ để rồi đến khi được phát hiện, khiến các chuyên gia, những người yêu hang động và đam mê du lịch mạo hiểm ngỡ ngàng, choáng váng vì vẻ đẹp lộng lẫy của nó”. Tác giả bài viết nêu rằng sức hấp dẫn của hang không chỉ nằm ở quy mô lớn mà còn bởi sự kì bí, độc đáo, kích thích trí tò mò và niềm hăng say khám phá của con người. Chính vì thế, “Vấn đề của Sơn Đoòng hiện nay là chọn cách khai thác nào cho hiệu quả, mà vẫn bảo vệ và gìn giữ được “báu vật” này.” Hệ thống đề mục và bố cục của văn bản rất rõ ràng, mạch lạc, giúp người đọc dễ dàng theo dõi văn bản và nắm bắt được ý chính trong mỗi đoạn.
Ở phần “Sơn Đoòng – Đệ nhất kì quan”, người viết nêu quá trình con người phát hiện và khám phá hang Sơn Đoòng. Hệ thống hang động kì vĩ như hiện nay chính là sự chắt chiu những tinh chất quý giá của tạo hóa trong hàng ngàn năm. Mãi đến năm 1990, Sơn Đoòng mới được biết đến. Ông Hồ Khanh – một người dân Quảng Bình khi đi qua khu vực Hang Én đã vô tình phát hiện một cái hang. Năm 2008, Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đến Việt Nam, Hồ Khanh có cơ hội gặp chuyên gia Howard Limbert. Sau đó, một mình ông Hồ Khanh đã vào rừng tìm kiếm, đến hai ngày mới tìm được cửa hang. Những phát hiện của Hồ Khanh được tác giả đưa vào bài viết như: suối nước lớn, nước chảy xiết, lòng hang sâu đã kích thích trí tò mò của người đọc về quy mô của hang động. Năm 2009, chuyên gia người Anh cùng ông Hồ Khanh đã tiến vào chinh phục hang. Và chỉ một năm sau đó, Sơn Đoòng chính thức được công nhận là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới vào năm 2010.
Sau đó, tác giả tiếp tục làm nổi bật sức hấp dẫn của Sơn Đoòng bằng những số liệu cụ thể, xác thực. “chiều dài nhánh chính của hang Sơn Đoòng là 4,45 km. Khoảng cách tính từ nền lên tới trần hang bên trong, nơi cao nhất là 203 m. Từ đỉnh cao nhất của hố sụt xuống đến nền hang, khoảng cách lên tới 304 m. Nơi lòng hang rộng nhất, theo kích thước đo đạc là 147 m. Và thể tích của toàn bộ hang Sơn Đoòng đạt tới 12,5 triệu mét khối”. Việc đưa ra những số liệu chính xác đã giúp tăng độ tin cậy ở người đọc, cho ta thấy rõ được quy mô rộng lớn đến không ngờ của hang. Ở đoạn này, người viết đã đưa ra những so sánh, nhận định ấn tượng để thể hiện quan điểm riêng, nhấn mạnh sức hấp dẫn của hang động: “Để chuyển tải được vẻ kì vĩ cùng không gian gây choáng ngợp của Sơn Đoòng, những bức ảnh – khuôn hình đều phải dùng con người để đối sánh. Với kích cỡ con người chỉ bé xíu bằng một chú kiến khi đặt trong ma trận nhũ đá cùng vòm hang khổng lồ, chúng ta sẽ thấy khả năng tạo tác thần kì của bà mẹ thiên nhiên quả là không giới hạn!”.
Sau quy mô hoành tráng, điểm hấp dẫn tiếp theo của Sơn Sơn Đoòng nằm ở “nhiều điều kì lạ”. Người viết đã đưa người đọc vào bước vào hành trình phiêu lưu, khám phá hang động trong từng chặng. Đầu tiên là khi đi qua Hang Én để tới được cửa hang. Cách nhấn mạnh Hang Én là “hang động tự nhiên lớn thứ ba thế giới” đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc về “Kì quan đứng cạnh kì quan”, làm tăng sự tự hào về cảnh sắc Việt Nam. Tác giả giải thích nguồn gốc của cái tên “Hang Én” xuất phát từ thực tế tự nhiên. “Mỗi năm vào khoảng giữa tháng Năm âm lịch, chim én lại ra ràng đồng loạt. Hang dài 1,6 km, trần hang có nơi cao đến 100 m. Hang Én cũng là cái túi nước khổng lồ, nơi thu nước từ nhiều chỗ. Mùa mưa, nước dâng lên trong hang rất nhanh. Trong Hang Én có những khối đá vôi bị hoà tan, rửa lũa tạo thành những hình dạng độc đáo”. Hang Én đẹp và đặc sắc đến như vậy nhưng mới chỉ là hang động lớn thứ ba thế giới. Vậy Sơn Đoòng – hang động lớn nhất hẳn phải chứa đựng rất nhiều điều kì bí và thú vị!.
Ở đoạn văn ngắn miêu tả cửa hang, tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Qua Hang Én, tụt xuống của sau, đi thêm khoảng hơn 3 km nữa là tới cửa hang Sơn Đoòng Nền hang tụt sâu xuống bên dưới khoảng 80 m. Muốn xuống phải vượt qua một vách đá thẳng đứng, phải dùng dây và bộ đai leo núi chuyên dụng để trèo xuống”. Giữa rất nhiều những đặc điểm của hang, người viết đã chọn lấy điểm đặc biệt nhất để đưa vào bài viết, chính là hai hố sụt. Tác giả lí giải hai hố sụt này tạo nên các “giếng trời”. Người viết vận dụng những kiến thức đa dạng về địa lí, sinh học được vận dụng nhiều để tái hiện sinh động quang cảnh độc nhất ở đây. Ánh sáng tự nhiên từ các giếng trời rọi xuống, tạo nên một thảm thực vật dày đặc. Người viết ưu ái gọi đây là “một khu rừng nhiệt đới đặc biệt không nơi nào có được” và miêu tả kĩ hai thảm thực vật. Nếu thảm thực vật trong hố sụt thứ nhất đa phần là cây thân thảo và dương xỉ, thường được gọi là Hố sụt Khủng Long thì thảm thực vật trong hố sụt thứ hai lại phong phú hơn nhiều, gọi là Vườn Edam. Độ cao của cây (20 – 30m), đường kính gốc cây (40cm) và các chủng loại cây (cây cao, tán hẹp, thực vật biểu sinh),… đều được người viết đề cập nhằm tái hiện đầy đủ và chân thực những nét đặc sắc của hang. Và để kết thúc chuyến hành trình, Sơn Đoòng dành tặng du khách “Bức tường Việt Nam”. Những khối thạch nhũ ngàn năm cao xấp xỉ 100m, chăn hết chiều rộng cuối hang và nối với hành lang chính bằng một hồ nước dài cỡ 500m.
Cuối cùng, sau khi đã cung cấp những thông tin đầy đủ, đa dạng để miêu tả vẻ đẹp của Sơn Đoòng, bài viết đã đưa ra hướng phát triển bền vững hang động lớn nhất thế giới này. Sự kì vĩ, tráng lệ của hang được cả thế giới đánh giá cao, nhiều du khách đổ về đây nên rất dễ xảy ra tình trạng “thương mại hóa”. “Thiên đường dưới lòng đất” cần được khai thác dưới hình thức du lịch mạo hiểm, hiệu quả kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường. Đặc biệt, ta cần bảo vệ cả quần thể di tích hang động. “Một khi đã bị tổn hại thì không chỉ Sơn Đoòng, Hang Én mà toàn ngành du lịch Việt Nam sẽ mất đi vị thế trên bản đồ du lịch mạo hiểm thế giới và khó có khả năng hồi phục”.
Với nhan đề, cấu trúc bố cục rõ ràng, các dữ liệu chân thực và đa dạng, kết hợp giữa nhiều nguồn kiến thức, bài viết “Sơn Đoòng – Thế giới chỉ có một” đã cung cấp cho người đọc những thông tin về sự hùng vĩ của hang động và cách bảo vệ, phát triển nguồn tài nguyên quý giá này. Từ đó, tác giả thể hiện thái độ trân trọng, yêu mến dành cho danh lam thắng cảnh Việt Nam.