Đáp án Mẫu 1 Phân tích văn bản tiếng Việt lớp trẻ bây giờ – Văn mẫu 11 Cánh diều.
Câu hỏi/Đề bài:
Tiếng Việt là một thước đo tâm hồn người Việt, là dòng chảy bất tận trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân ta. Tuy nhiên, giới trẻ ngày nay có xu hướng sử dụng ngôn ngữ viết tắt và tự chế trong việc nhắn tin trên điện thoại, mạng xã hội, và thậm chí kết hợp giữa chữ viết tắt tiếng Tây và tiếng Việt, chữ và số. Do đó, vấn đề hiện trạng giới trẻ sử dụng Tiếng Việt đã trở thành một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay. Văn bản “Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ” như một bức tranh tái hiện lại hiện trạng giới trẻ sử dụng Tiếng Việt hiện nay.
Phạm Văn Tình sinh năm 1954 tại Nam Định. Ông là tác giả của một loạt ấn phẩm về ngôn ngữ. Dù dành nhiều tâm huyết với tiếng Việt, Phạm Văn Tình cũng nổi tiếng với tư tưởng hiện đại. Ông là người cổ vũ cho việc thay đổi ngôn ngữ theo thời đại, lắng nghe sự sáng tạo của giới trẻ. Tuy nhiên, với sự “đổi mới” tiếng Việt của lớp trẻ hiện nay, ông đã nêu lên quan điểm bản thân qua văn bản “Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ”.
Đầu tiên, Phạm Văn Tình đã trình bày phản ánh về sự bất bình và không chấp nhận của một số người đối với ngôn ngữ trong lối nói, viết được sử dụng bởi giới trẻ ngày nay: “Tôi chẳng hiểu thứ tiếng Việt mà bọn trẻ đang nói và chat với nhau là thứ tiếng Việt gì”; “Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ đã xuống cấp đến thế sao?”… Một loạt các câu hỏi được sử dụng, những câu hỏi ấy được hỏi bởi nhiều người để tạo ra một tình huống đặt vấn đề và thể hiện sự bất mãn của một phần lớn xã hội.
Tác giả đã đưa ra thông tin về đối tượng đang được bàn luận, bao gồm các thế hệ 8X, 9X và dòng Y2K. Họ cũng đưa ra các cụm từ như “tuổi teen”, “tuổi học trò”, “tuổi hoa phượng”, “tuổi mực tím”, “tuổi ô mai”, đó là những từ chỉ giới trẻ, đang “tuổi ăn tuổi ngủ” và thường bị coi là “ăn chưa no, lo chưa tới”. Ông cũng chỉ ra rằng ngôn ngữ của giới trẻ có xu hướng khác biệt so với tiếng Việt toàn dân, hay còn được gọi là “tiếng Việt đời mới”. Tuy nhiên, tác giả cũng đặt câu hỏi liệu có phải cách sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ phản ánh tính cách của họ? Hay là phản ánh một thực tế của thế giới hiện đại? Bằng cách đặt ra những thắc mắc này, tác giả khơi gợi sự suy nghĩ và bàn luận về một chủ đề đang gây tranh cãi trong xã hội.
Tiếp đến, Phạm Văn Tình nói đến những biểu hiện của việc phá vỡ các chuẩn mực chính tả, được thể hiện qua hành động viết tắt, viết phá cách, viết sai chính tả của giới trẻ. Ông đã đưa một đoạn trong bài Tiếng Việt thời @ của tác giả Joseph Ruelle, người Canada, hay còn gọi là Joe. Trước hết, đó là những ví dụ về việc viết sai chính tả, chẳng hạn như thay “ô” bằng “u”, bỏ chữ “ô” hoặc “h” trong một số từ. Hoặc đó cũng là sự thay thế giữa hai chữ “q” và “u” thành “w”. Ông cho rằng, anh chàng Joe đã “thâu tóm” được rất nhiều biến thể chính tả mà các chàng, nàng tuổi teen đang dùng. Tác giả cũng đưa ra ví dụ về việc sử dụng viết tắt thay vì viết đầy đủ, chẳng hạn như “2” thay vì “hai”, “G9” thay vì “chúc ngủ ngon” và “vđ” thay vì “vấn đề”. Bên cạnh đó, việc sử dụng ngôn ngữ chat trong bài viết, với việc sử dụng các kí hiệu như “~” và “&” đã trở nên quen thuộc với lớp trẻ, thậm chí lan sang cả “lớp già”. Các trường hợp này cho thấy sự phá vỡ chuẩn mực chính tả thông qua việc sử dụng các cách viết mới, viết tắt và ngôn ngữ chat.
Chính vì sự phá vỡ chuẩn mực chính tả qua cách viết ấy, việc sáng tạo ra những ngôn ngữ lệch chuẩn của giới trẻ ngày càng trở nên “rộng rãi”. Điều này được thể hiện rõ qua việc sử dụng các từ lóng và mã ngôn ngữ của giới trẻ. Các từ lóng và mã ngôn ngữ được sáng tạo bởi các nhóm học đường, bao gồm các từ được tạo ra dựa trên hiện tượng đồng âm nối từ, cách nói mở rộng tổ hợp theo vần điệu và cách gọi các đối tượng trong cuộc sống hàng ngày. Chẳng hạn: a kay – chim cú = cay cú; cá kiếm = kiếm tìm; ca mơ run = run (sợ), lo lắng… Ông cho rằng việc sử dụng các từ lóng và mã ngôn ngữ của giới trẻ có thể được chấp nhận nếu chỉ để tạo nên lối nói tếu táo, cho vui và giúp giải tỏa stress. Tuy nhiên, ông cũng nói đến một số vấn đề tiềm ẩn khi sử dụng các từ lóng và mã ngôn ngữ này, bao gồm sự hỗn loạn và khó kiểm soát, cũng như dẫn đến sự hiểu nhầm trong giao tiếp.
Cuối cùng, ông đã bộc lộ quan niệm của mình về việc sáng tạo ngôn ngữ. Tác giả phát biểu rằng: “ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra” và mọi sự nảy sinh ngôn từ trong xã hội đều có cái lý của nó. Trong thời đại công nghệ số, nơi mà giới trẻ đang chiếm ưu thế và “nắm quyền”, việc giới trẻ tạo ra các từ ngữ mới là bình thường và đó là một “trò chơi ngôn ngữ” nhằm giải trí và tạo ra một không khí mới lạ trong giao tiếp. Nó hoàn toàn không vô bổ, mà có giá trị kích thích sự hưng phấn, giúp giới trẻ có cảm hứng để làm việc và học tập hăng say, hiệu quả hơn.
Ông đã đề cập về nhận xét của giáo sư Nguyễn Đức Dân: “Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hằng ngày, được nhiều người chấp nhận”. Từ điển từ mới tiếng Việt hiện nay đã bổ sung nhiều từ mới lạ chính từ nguồn ngôn ngữ lớp trẻ đó. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thấy ngôn từ này đang “ký sinh” vào ngôn ngữ toàn dân, nên nó cũng có những “tác dụng phụ”, tức ảnh hưởng trở lại ngôn ngữ toàn dân.
Tiếng Việt của giới trẻ đang rất đa dạng và hỗn tạp, và người nói phải có sự chọn lọc. Tuy nhiên, sẽ có những từ ngữ giới trẻ tạo ra được cộng đồng chấp nhận và nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng việc học và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ là rất quan trọng, đặc biệt là đối với trẻ em. Việc học ngôn ngữ càng sớm thì càng tốt, vì trẻ em có sức bật tốt và tiềm năng để học tập và phát triển kỹ năng ngôn ngữ.
Văn bản “Tiếng Việt lớp trẻ bây giờ” đã cung cấp những thông tin về việc giới trẻ hiện nay sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt như thế nào. Đây như một lời nhắc nhở, cảnh tỉnh những bộ phận giới trẻ đang sáng tạo, sử dụng những ngôn ngữ cho riêng mình mà mải mê quên việc học tập trau dồi tiếng mẹ đẻ trong sáng.