Giải chi tiết Bài tham khảo Mẫu 3 Phân tích "tinh thần thơ mới" được Hoài Thanh nhắc đến trong "Một thời đại trong thi ca" – Văn mẫu 11 Cánh diều.
Câu hỏi/Đề bài:
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh thể hiện rõ nhất ở chữ tôi. Thơ cũ là chữ ta, thơ mới là chữ ta. Tuy có điểm tương đồng nhưng cũng có điểm khác biệt, đó là điều chúng ta cần tìm hiểu.
Tinh thần thơ mới là nội dung nổi bật được Hoài Thanh thể hiện sâu sắc trong phần cuối của tiểu luận Một thời đại trong thi ca.
Sau khi nêu bật được hình thức câu thơ, nhịp điệu câu thơ, sự ngọt ngào, ngắt nhịp, cách dùng từ, cách đặt câu,… của thơ mới, Người chỉ rõ tinh thần thơ mới quan trọng hơn những gì chúng ta cần tìm kiếm. Ông đưa ra tiêu chí “phải sánh bài hay với bài hay”; ông chỉ ra di sản của những thứ như “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì các thời đại vẫn tiếp tục trôi theo dòng chảy của thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh thể hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ ta. Tuy có những điểm tương đồng nhưng vẫn có những điểm khác biệt, đó là điều chúng ta cần tìm hiểu.
Bản ngã là cái tôi của mỗi con người mà ai cũng có, tự nhận thức được. Anh mang trong mình một khái niệm chưa từng thấy trước đây: khái niệm cá nhân. Lúc đầu, từ tôi xuất hiện trên diễn đàn tiếng Việt là “thực bỡ ngỡ”, giống như một người “lạc lối ở nước ngoài”. “Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó” lần đầu tiên xuất hiện trên thi ca Việt Nam, nó đến một mình, “bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”. Ngày một ngày hai, “mất đi cái vẻ ngạc nhiên rồi “vô số người quen”, cảm thấy “nó đáng thương ”, “nó tội nghiệp quá!”.
Bài “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được “hình dáng câu thơ”, thấy được cái tôi từ chỗ “bỡ ngỡ” lúc đầu rồi về sau được “vô số người quen” như thế nào?
“Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cổ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ.
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở,
Dừng tay tôi kêu chàng:
“Này, này! bạn! xuân sang”
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã”
(“Xuân về” – Lưu Trọng Lư)
Và đây là bốn câu thơ trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…”
Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Những bậc kì tài (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương), “thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ”, thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác” (1). Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ “ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người”.
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
(Bà Huyện Thanh Quan)
“Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác
Kế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa
Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa
Mặt trời cho ta chửa hỏi chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi…”
(Gặp xuân- Tản Đà)
Cái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước “nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên (“Tiếng sáo Thiên Thai” – Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn (“Say đi em”, “Phương xa” – Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:
“Thuyền yêu không ghé bến sầu
Nhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăng”
(Một mùa đông – Lưu Trọng Lư)
Hoặc điên cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồn:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”
(Chế Lan Viên)
“Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.”
(Huy Cận)
“Trăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ”
(Xuân Diệu)
Cái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú:
“Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới:
“Những khung trời thực, những khung trời mơ luôn theo hồn tôi. Chưa bao giờ thơ Việt buồn và trên hết xôn xao đến thế. Với lòng tự trọng, chúng ta cũng đánh mất sự yên bình của quá khứ.”
Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là nó đã góp phần hiện đại hóa ngôn ngữ tiếng Việt. Thơ co, duỗi tự nhiên. Ca từ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới bày tỏ lòng kính trọng, yêu mến tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa” và “tâm hồn bạch” để diễn tả tình cảm cao đẹp này:
“Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.
Kết thúc tiểu luận “Một thời thơ”, Hoài Thanh trân trọng bày tỏ niềm hy vọng vào thơ mới và các nhà thơ mới “Một thời đại thi ca”. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần của nòi giống sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cổ, thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để xin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.
Điệp khúc “Chưa bao giờ như bây giờ…’! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân tình.
Nhưng rồi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt diễn ra đã thổi bùng ngọn lửa cho một nền thơ mới, một thế hệ nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Bảy chục năm sau, đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, người ta thêm hiểu thơ mới, thêm yêu một lớp các nhà thơ tiền chiến của “một thời thơ”.
Bằng cách lập luận logic, chặt chẽ vừa khoa học vừa nghệ thuật, bài văn hiện lên sống động, chân thực. Như vậy, đoạn trích của Hoài Thanh là sự thể hiện chân thực, cụ thể tinh thần của thơ mới là cái tôi, ngoài ra, nó còn là lời tuyên ngôn cho tấn bi kịch đang diễn ra trong ba tâm hồn Mị trẻ đến nay và là con đường cho để họ bày tỏ tình cảm là gửi gắm tình cảm của mình bằng tiếng Việt – dải lụa trắng cảm động của bao thế hệ đã qua.