Gợi ý giải Văn bản Tấm lòng người mẹ – – Soạn văn 11 Cánh Diều chi tiết. Phăng-tin bị đuổi ra khỏi xưởng vào một ngày cuối đông. Từ độ ấy, một mùa hè đã qua,…
Tấm lòng người mẹ
(trích Những người khốn khổ)
Huy – gô
Phăng-tin bị đuổi ra khỏi xưởng vào một ngày cuối đông. Từ độ ấy, một mùa hè đã qua, rồi mùa đông lại trở về. Ngày ngắn, chị làm việc được ít. Mùa đông không có hơi ấm, không có ánh sáng, không có canh trưa, buổi chiều và buổi sáng liền nhau, lúc nào cũng có sương mù, lúc nào cũng như hoàng hôn, cửa kính mờ xám, không trông rõ ra ngoài nữa. Cả bầu trời như một cái cửa thông hơi dưới hầm, cả ngày bưng bít như trong một cái hũ. Mặt Trời trông thiếu não như một người nghèo. Cái mùa ghê gớm! Nó biến nước trời và lòng người thành đá. Bọn chủ nợ giày vò Phăng-tin.
Tiền chị kiếm ra quá ít ỏi. Nợ càng ngày càng nhiều. Thấy tiền gửi thất thường, vợ chồng Tê-nác-đi-ê luôn luôn viết thư thôi thúc. Lời thư làm cho chị khổ tâm, bưu phí làm cho chị cạn túi. Một lần, chúng viết thư nói rằng trời rét thế mà con Cô-dét của chị trần truồng rách rưới; cần sắm cho nó một cái váy len, vậy phải gửi ngay cho chúng mười phơ-răng. Phăng-tin nhận thư, cả ngày cầm trong tay đến nhàu nát. Buổi chiều, chị đến một hiệu cắt tóc ở phố. Chị bỏ lược, mớ tóc vàng óng ả đổ xuống đến ngang lưng. Người thợ cạo trầm trổ:
– Ôi! Tóc đẹp quá!
Phăng-tin hỏi:
– Ông trả tôi bao nhiêu?
– Mười phơ-răng.
– Ông cắt đi.
Chị mua một cái váy len gửi cho vợ chồng Tê-nác-đi-ê. Nhận được váy, vợ chồng chúng tức điên ruột. Chúng muốn Phăng-tin đưa tiền kia. Chúng đem váy mặc cho Ê-pô-nin (Éponine), con Sơn ca đáng thương thì vẫn rét run cầm cập. Phăng-tin nghĩ: “Con ta không rét nữa. Ta đã lấy tóc ta dệt cho con mặc rồi.”. Chị đội mũ chụp nhỏ để giấu cái đầu trụi tóc, tuy thế vẫn còn xinh.
Lòng người đàn bà ấy đang chịu những giày vỏ đen tối. Khi chị thấy không chải chuốt được nữa, chị đâm thủ ghét tất cả. Cả đến ông Ma-đơ-len mà chỉ cũng như tất cả mọi người, vẫn kính phục xưa kia, chị cũng phát ghét, ghét cay đắng. ghét hơn ai hết, vì chị đã lặp đi lặp lại quá nhiều lần rằng ông đã đuổi chị, làm cho chị khốn khổ đến thế. Những khi đi qua xưởng cũ có thợ thuyền đứng trông, chị và cười và hát to lên. Một bà thợ giả một hôm trông thấy chị cười và hát như thế, bảo: “Cái chị này rồi cũng chả ra gì.”.
Phăng-tin lòng đầy uất hận, bắt nhân tinh bừa với một người, chẳng cân nhắc gì. người đầu tiên mà chị gặp, một người mà chị không yêu, như muốn trêu tức mọi người vậy: người ấy là một thẳng khốn nạn, một tên gảy đàn hành khất, một dứa vô nghề nghiệp nghèo khốn. Hắn đánh đập chị rồi chán chị, bỏ chị dễ dàng cũng như khi chị bắt nhân tình với hắn. Phăng-tin vẫn yêu quý đứa con hết sức. Chị càng sa đọa, cuộc đời chị càng đen tối, thì hình ảnh đứa con thơ ngây yêu dấu lại càng sáng chói trong tâm hồn chị. Chị tự bảo: “Bao giờ ta giàu, thì ta sẽ đón Cô-dét của ta về với ta”, và chỉ cười sung sướng. Chứng họ cũ của chị vẫn không khỏi, lưng lại thường toát mồ hôi lạnh.
Một hôm, chị nhận được một bức thư của vợ chồng Tê-nác-đi-ẽ như sau: “Cô-dét mắc một chứng bệnh đang phát triển ở địa phương, người ta gọi là bệnh sốt ban. Cần nhiều thứ thuốc đắt tiền để chữa, chúng tôi chạy chữa đến sạt nghiệp, bây giờ thì chúng tôi không còn tiền nữa. Trong vòng tám ngày, nếu chị không gửi cho bốn mươi phơ-răng thì coi như con bé đi đứt”. Phăng-tin cười rộ lên như điền và nói với bà láng giềng:
– A, họ quỷ hoả thật! Bốn mươi phơ-răng, có thể thôi! Nghĩa là hai đồng vàng! Đào đâu ra? Họ thật ngớ ngẩn, những người nhà quê ấy họ ngớ ngẩn thật.
Nhưng rồi chị lại đi ra phía cầu thang, ghé cửa sổ đọc lại bức thư. Và chị xuống thang gác, chạy ra phố, vừa chạy vừa nhảy vừa cười khanh khách.
Có người gặp chị hỏi
– Có gì mà chỉ vui sướng thế hở?
Chị trả lời:
– Ở nhà quê họ vừa viết thư cho tôi. Thật là ngu ngốc. Họ đòi tôi gửi bốn mươi phơ-răng. Nhà quê thật.
Khi đi qua quảng trường, chị thấy có đám đông xúm quanh một chiếc xe kiểu rất lạ. Trên sản xe có một người đàn ông mặc áo đỏ đang nói huyền thuyền. Đó là một anh chàng nhổ răng đạo, đang giới thiệu với mọi người những hàm răng giả trọn vẹn, những ống thuốc đánh răng, những “nha thống thuỷ”, “nha thống tán”.
Phăng-tin len vào đám đông và cũng cười như mọi người. Bài diễn thuyết của tên nhổ răng dạo đầy những tiếng lỏng dành cho bọn vô lại và những chữ khó hiểu để cho khách tử tế. Thấy Phăng-tin cười, hắn bỗng kêu lên:
– Cái chị đang cười kia, răng chị đẹp quá! Nếu chị bán cho tôi hai cái bàn cuốc của chị thì tôi trả cho chị mỗi cái một đồng vàng.
Phăng-tin hỏi:
– Hai cái bàn cuốc của tôi là cái gì?
– Hai cải bàn cuốc là hai cái răng cửa hàm trên ấy. – Anh nhổ răng nói.
Phăng-tin kêu:
– Nói gì mà nghe ghê rợn thế!
Một
mụ giả móm đứng cạnh nói lẩm bẩm:
– Hai đồng vàng cơ à! Thật là sướng nhé!
Phăng-tin bịt tai chạy trốn để khỏi nghe giọng nói khăn khăn của anh chàng ấy
đuổi theo
– Nghĩ kĩ đi chị ơi! Hai đồng vàng được khối việc đấy. Nếu vừa ý, tối nay đến tìm tôi ở quán Ti-lắc (Tillae) nhớ.
Phăng-tin về đến nhà, còn lẩm bẩm tức giận. Chị kể chuyện lại cho bà Mác-go-rít (Marguerite):
– Bà thử nghĩ xem có nghe được không? Sao lại có thẳng cha đáng ghét thế! Sao người ta lại để cho những đứa như vậy đi dạo khắp nơi? Bẻ hai cái răng cửa của tôi à? Thế rồi mặt mũi của tôi sẽ ghê gớm như thế nào? Tóc còn mọc lại chữ răng thì bao giỏi. Gớm cái đồ yêu quái! Thả tôi đâm đầu từ tầng gác thứ năm xuống vỉa hè còn hơn. Hắn bảo tôi là tối nay hắn ở quán Ti-lắc.
Bà Mác-gơ-rít hỏi
– Thế hắn trả bao nhiêu?
– Hai đồng vàng.
– Thế là bốn mươi pho răng.
– Vâng, thể là bốn mươi phơ-răng. – Phăng-tin nhắc lại.
Chị yên lặng, trầm ngâm rồi giờ việc ra làm. Mười lăm phút sau, chị bỏ đồ khâu đẩy và chạy ra cầu thang đọc lại cải thư Tê-nác-đi-ê. Khi trở vào, chị hỏi bà Mác-gơ-rít ngồi khâu bên cạnh
– Bà nhỉ, sốt phát ban là gì nhỉ, bà có biết không?
– Có, đó là một thứ bệnh.
– Chữa bệnh này cần nhiều thuốc lắm phải không?
– Ô, những thứ thuốc ghê gớm lắm!
– Bệnh ấy đau ở đâu nhỉ?
-Nó đau như thế đấy.
-Trẻ con hay mắc, phải không?
– Nhất là trẻ con, dễ mắc lắm.
– Có chết được không hở bả.
– Chết lắm chứ lị.
Phăng-tin lại đi ra để đọc bức thư một lần nữa ở cầu thang.
Đến tối, năng ra phố và người ta thấy nàng đi về phía phố Pa-ri là phố các quán con. Hôm sau, trời chưa sáng, khi bà Mác-gơ-rít sang phòng Phăng-tin để cũng ngồi khâu chung một ngọn nến thì bà ta thấy Phăng-tin ngồi trên giường, mặt tái nhợt, lạnh lẽo, ghê rợn. Nàng không ngủ. Chiếc mũ chụp rơi xuống đầu gối, ngọn nến cháy cả đêm sắp tàn.
Trước cảnh tượng bất thường ấy, bà Mác-gơ-rít kinh ngạc đứng sững ở ngưỡng
cửa như một pho tượng gỗ. Bà kêu.
– Lạy Chúa! Cây nến cháy hết cả như thế kia! Có tại biển gì xảy ra, hở chị Phăng-tin?
Rồi bà nhìn Phăng-tin đang quay cái đầu trọc lốc về phía bà.
Mới một hôm mà Phăng-tin đã già đi đến mười tuổi.
– Lạy Chúa! Chị Phăng-tin, chị làm sao vậy?
– Có gì đâu. Tôi vui thì có. Con tôi sẽ không chết về cái bệnh ác nghiệt ấy vì có thuốc rồi. Tôi rất hài lòng.
Phăng-tin nói thế và chỉ cho bà Mác-gơ-rít hai đồng tiền vàng chói ngời trên mặt bàn.
– Ôi Chúa ơi! Cả một cái gia sản như thế! Chị làm gì mà có được những đồng tiền vàng ấy?
– Có đấy ạ.
Phăng-tin trả lời thế thôi và cười. Ngọn nến chiếu rõ mặt chị. Nụ cười rớm máu. Một ít nước dãi đỏ dinh ở hai mép và ở miệng chị có một lỗ hổng đen! Hai cái răng đã bẻ đi rồi.
Phăng-tin gửi bốn mươi phơ-răng ấy cho Tê-nác-đi-ê. Thật ra thì vợ chồng Tê-nác-đi-ê đã đánh lừa nàng để lấy tiền, Cô-dét không ốm.
Phăng-tin ném gương qua cửa sổ. Từ lâu nàng không ở cái phòng ở tầng hai nữa mà lên ở trên gác xếp sát mái nhà, chỉ cài bằng một cái then con, một cái xó mà gác mái chếch lên mặt sàn, ra vào đụng đầu. Kẻ nghèo khổ chui vào buồng mình ở cũng như đi sâu vào số mệnh, càng vào cảng phải củi rạp lưng xuống. Phăng-tin không có giường nữa, nàng chỉ có một mảnh giẻ rách gọi là chăn, một cái đệm vứt xuống sàn và một chiếc ghế nát.
Cây hồng con nàng vẫn trồng đã chết khô trong một góc buồng. Trong góc khác có một cái công đựng bơ hay dùng dựng nước: mùa rét nước động lại, mỗi lần như thế, mặt nước để lại một vành băng trong lòng công. Phăng-tin đã không cần biết xấu hổ là gì, đến nay, nàng cũng không thiết làm dáng nữa. Đến thế là hết. Nàng đội những cái mũ chụp bắn đi ra phố. Vì bận hay vì chán chường, nàng để mặc cho quần áo rách nát, không vá víu nữa. Khi gót bít tất thủng, nàng gấp vào trong giày làm cho bít tất có những nếp dẫn dọc. Nàng đụp cái coóc-xê cũ nát bằng những mụn vải bò, hễ cựa một cái là toạc ra. Chủ nợ luôn mè nheo, không để cho nàng yên lúc nào. Ở ngoài đường cũng thấy họ, về nhà cứ đến cầu thang lại đã thấy họ. Đêm nào nàng cũng nghĩ ngợi và khóc lóc. Mắt nàng sáng quốc lên; nàng luôn luôn đau nhói ở phía trên bả vai bên trái. Nàng ho nhiều. Nàng thù ông Ma-đơ-len lắm, nhưng nàng không than thở. Nàng khâu mười bảy giờ một ngày. Nhưng một tên chủ thầu nhà pha lãnh thuê tù phụ nữ khâu giá rẻ, nên công khâu thuê ở ngoài cũng bị hạ xuống, chỉ được chín xu một ngày. Làm việc mười bảy giờ mà chỉ được chín xu! Bọn chủ nợ lại càng nghiệt ngã hơn bao giờ hết. Người bán đồ cũ của nàng đã bắt lại gần hết đồ đạc, thế mà lúc nào hắn cũng hỏi nàng: “Cái quân này lúc nào mày trả nợ tao?
Người ta còn muốn gì nữa, hở trời! Nàng thấy minh như một con vật bị người ta săn bắt và đương hoá nên hung tợn vì bị đuổi cùng đường. Cũng lúc ấy, nhà Tê-nóc-đi-e viết thư bảo nàng là chúng đã kiên nhẫn lắm rồi, đã tốt hết sức rồi, phải gửi ngay cho chúng một trăm phơ-răng. Gửi ngay, nếu không chúng sẽ tổng cổ Cô-dét ra cửa mặc cho rét mướt, mặc cho lang thang, mặc cho vừa thoát khỏi cái bệnh ghê gớm, mặc cho đứa bé muốn ra sao thì ra, có phải chết đường chết chợ cũng đành. Phăng-tin tự bảo: “Một trăm phơ-răng! Tìm đầu ra một việc làm công nhật năm phơ-răng? Thôi! Đành bán nốt vậy.”
Thế là người đàn bà xấu số ấy đi làm gái điếm.
(Những người khốn khổ, HUỲNH LÝ, VŨ ĐÌNH LIÊN, LÊ TRÍ VIÊN, ĐỖ ĐỨC HIỆU dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 1999)