Trang chủ Lớp 10 Văn lớp 10 Văn mẫu 10 - Kết nối tri thức Ví dụ minh họa Hướng dẫn cách làm bài văn Viết văn...

Ví dụ minh họa Hướng dẫn cách làm bài văn Viết văn bản nghị luận phân tích – đánh giá một tác phẩm truyện Văn mẫu 10: Đề Phân tích tác phẩm “Hai đứa trẻ” Dàn ý chi tiết : Đôi nét về Thạch Lam

Trả lời Ví dụ minh họa Hướng dẫn cách làm bài văn Viết văn bản nghị luận phân tích – đánh giá một tác phẩm truyện – Văn mẫu 10 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Đề 1: Phân tích tác phẩm “Hai đứa trẻ”

a.Dàn ý chi tiết

Mở bài:

– Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông có thế mạnh về viết truyện ngắn. Văn chương Thạch Lam rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn

– Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn phù hợp cho nhận định trên

Thân bài:

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:

-Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên

– Âm thanh: Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.

– Hình ảnh, màu sắc: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.

– Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

– Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu

→Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

+ Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.

+ Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

-Con người:

+ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ

+ Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.

+ Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.

+ Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.

+ Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

→ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

– Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

+ Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

+ Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

→Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:

+ “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.

+ “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

→ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

+ Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…→ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

+ Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

→Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé → kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

+ Chị Tí dọn hàng nước

+ Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

+ Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

→Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

-Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào.

-Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” → mơ hồ, tội nghiệp

→Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

– Liên và An thức bởi:

+ Để bán hàng

+ Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

+ Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”

+ Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

+ Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.

+ Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

– Khi tàu đi vào đêm tối:

+ Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.

+ Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

→ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước

Kết bài:

– Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn

-Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạch Lam: kết hợp hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

b. Các bài văn mẫu tham khảo

Bài làm mẫu số 1

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 – 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường“truyện không có truyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy. Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn” . Những Sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam Lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại võ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, … những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…”ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng“thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà. Gánh phở bác Siêu lại là món ăn xa xỉ với người dân phố huyện, bởi vậy lúc nào cũng vắng khách. Bác xẩm gảy lên “mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” thu nhập chẳng đáng là bao. Hình ảnh cụ Thi điên có lẽ đã gây biết bao ám ảnh với người đọc, cụ triền miên trong cơn say, bước đi lảo đảo, dường như cụ tìm đến với hơi men để lãng quên thực tại cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, để quên đi những nỗi đau của thực tế. Những người dân phố huyện vẫn gắng gượng sống qua ngày, họ sống cuộc đời mòn mỏi, mà chưa thể tìm ra lối thoát cho chính mình. Họ cũng mang trong mình mơ ước “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn…” nhưng đó chỉ là mơ ước mơ hồ, chập Thư viện tài liệu học tập, tham khảo online lớn nhất, vu vơ, không có đích đến. Những ước mơ đổi đời của những người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

Trong khoảnh khắc của ngày tàn, khi bóng tối đã ngập đầy mọi nơi, Thạch Lam Một cách rất tinh tế đã tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy lãng mạn của cảnh vật thông qua những cảm nhận nhạy bén của nhân vật Liên. Cô bé thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh, tưởng tượng đó là dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân thần nông. “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ…” Liên quả là người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, khi “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” em vẫn tìm thấy những nguồn sáng khác nhau từ thiên nhiên, cảm nhận cái rơi thật khẽ, thật êm của hoa bàng rụng. Liên Tìm đến ánh sáng không phải là một điều ngẫu nhiên, ánh sáng ấy chính là mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của Liên. Em tìm nguồn sáng sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mỏng manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Đây đồng thời cũng là khao khát đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.

Nhưng có lẽ đẹp nhất, rực rỡ nhất chính là khoảnh khắc khi đoàn tàu vụt qua phố huyện nghèo. Không ai ngủ, không ai về trước khi đoàn tàu đi qua, ai cũng cố thức để chờ đoàn tàu đến, không phải là để cố gắng bán thêm được thứ gì, vì hầu như không có ai mua, mà là bởi để thấy được chút ánh sáng của sự sống, của niềm tin, hi vọng. Cũng bởi vậy mà, mặc dù đã buồn ngủ nhưng vẫn cố nhắc chị khi nào đoàn tàu đến hãy gọi em dậy, trong mong manh vô thức, Ai Cũng Có Khao khát đổi đời như tất cả người dân nơi đây. Khi đoàn tàu xuất hiện, tiếng reo lên đầy vui sướng: “đèn ghi đã ra kia rồi”, hồi còi tàu hỏa kéo dài, làn khói sáng trắng xuất hiện từ phía xa. Đoàn tàu vụt qua mang đến biết bao âm thanh: “tiếng xe rít mạnh vào ghi” , “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên”, đó là sự náo nhiệt, ồn ã, đông vui trái ngược hẳn với sự tĩnh lặng của phố huyện. Trên các toa tàu sáng rực “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh” nó gắn liền với cuộc sống sang trọng, giàu có trong phút chốc qua đi bóng tối, sự ảm đạm của cuộc sống nơi đây. Đoàn tàu đi qua, người ta vẫn cố nhìn đốm lửa xanh cho đến khi nó mất hẳn. Nếu đoàn tàu đi qua mang lại ánh sáng rực rỡ như sao băng thì giờ đây ở phố huyện chỉ còn lại vầng sáng nhỏ bé, leo lét, đêm tối lại bao bọc xung quanh. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, của Hà Nội, gợi về một thế giới thần tiên mà hai đứa trẻ từng được trải nghiệm, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ cũng như tất cả người dân phố huyện đang khao khát.

Cốt truyện đơn giản, hầu như không có cốt truyện, nhưng giàu chất trữ tình đã ghi lại một cách chân thực và cảm động về mơ ước đổi đời của người dân phố huyện. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đặc sắc, với bức tranh nên thơ, lãng mạn mà đượm buồn. Ngôn ngữ nhẹ nhàng, tinh tế. Nghệ thuật tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối làm bật lên mơ ước đẹp đẽ của con người nơi đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là điểm cần lưu ý, nhân vật Liên chú ý đi sâu miêu tả những trạng thái tình cảm, cảm xúc vừa cho thấy tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ vừa thấy mơ ước về một cuộc sống khác ở em.

Bằng một truyện ngắn đậm chất trữ tình, Thạch Lam đã thể hiện niềm xót thương với những kiếp người nghèo nàn, sống quẩn quanh nơi phố huyện. Đồng thời tác phẩm cũng là sự nâng niu, trân trọng của nhà văn với những ước mơ đổi đời đẹp đẽ của con người nơi đây.

Đề 2: Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”

a. Dàn ý chi tiết

Mở bài

– Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

– Tác phẩm chứa đựng những giá trị nhân văn, những triết lý sâu sắc về đời người bằng ánh nhìn đa diện, nhiều chiều của tác giả, về mối liên quan chỉ cách nhau một ranh giới thật mỏng manh là hiện thực cuộc đời và nghệ thuật.

Thân bài

* Tác giả:

– Nguyễn Minh Châu nổi tiếng với nhiều tác phẩm như Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau,… “thuộc vào trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng” nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

– Chiếc thuyền ngoài xa ra đời tháng 8/1983, in trong tập Bến quê (1985).

* Tình huống truyện bất ngờ và hai phát hiện của Phùng:

– Phát hiện cảnh đắt trời cho:

+ Cảnh chiếc thuyền lưới vó cập bến dưới ánh nắng hồng hồng mờ ảo – Bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ.

+ Vẻ đẹp toàn bích toàn diện khiến Phùng bối rối, ngỡ ngàng và hạnh phúc.

+ Vẻ đẹp của nghệ thuật là vẻ đẹp của đạo đức.

– Phát hiện thứ hai – Nghịch lý cuộc sống, vẻ xấu xí sau cái hoàn mỹ, toàn bích:

+ Người đàn bà xấu xí bước ra

+ Cảnh người chồng bạo lực người vợ, cảnh con đánh bố, cảnh bố đánh con

+ Phùng vỡ lẽ hóa ra ranh giới giữa cái vẻ đẹp toàn mỹ, toàn bích và sự thật nghiệt ngã xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một bức màn mỏng manh, chúng chẳng thể chịu được sự tàn phá của hiện thực cuộc đời đầy xấu xí.

* Nhân vật người đàn bà làng chài -Trung tâm câu chuyện:

– Hiện thân chung cho sự khốn khổ của những người phụ nữ miền biển, chị mang trên mình ba nỗi đau lớn:

+ Ngoại hình xấu xí: Cao to, thô kệch, mặt rỗ,…

+ Nghèo túng, đông con, thuyền chật

+ Bị bạo hành gia đình, phải nhẫn nhục chịu đựng, tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần dai dẳng.

– Những vẻ đẹp của người phụ nữ đằng sau lớp vỏ xấu xí, khốn khổ:

+ Lòng bao dung, thông cảm, biết ơn với người chồng vũ phu, luôn nhận hết lỗi về mình.

+ Tình mẫu tử thiêng liêng, đức hi sinh cao cả, chỉ sống vì con cái, luôn nghĩ về những lúc gia đình hòa thuận ấm êm.

+ Sự thâm trầm, thấu tình đạt lý, chỉ ra sự ngây thơ và đơn giản trong cách nhìn cuộc sống của Phùng và Đẩu, khiến họ thông suốt về hiện thực cuộc sống.

* Nhân vật Phùng:

– Nhận ra rằng không thể giải phóng con người khỏi đói nghèo, khỏi bạo lực gia đình chỉ bằng lòng tốt và pháp luật .

– Hiểu rằng không thể chỉ dùng cái nhìn phiến diện một chiều để đánh giá toàn thể sự việc, mà phải dùng đôi mắt trực quan nhiều chiều để suy xét và tìm hiểu.

Kết bài

– Nguyễn Minh Châu sâu sắc nhận ra rằng “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan”, làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ, chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn sâu sau đó là những hiện thực phũ phàng.

– Người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống rỗng, vô hồn.

b. Các bài văn mẫu tham khảo

Bài làm mẫu số 1

Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là một cây bút sử thi lãng mạn, trước năm 1975 các tác phẩm của ông chủ yếu viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức và triết lí chân thực. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

Nguyễn Minh Châu đã miêu tả bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng, đẹp mê lòng người. Bức tranh ấy quyến rũ kì lạ đối với những người biết yêu và thưởng thức cái đẹp như Phùng. Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó, như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe, bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích” đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng “như có gì bóp thắt vào”, trong cái giây phút bối rối ấy Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái không khí trong ngần của tâm hồn”. Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Phùng, anh đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình. Tuy nhiên hiện thực lại không hề tươi đẹp đến như vậy.

Tác giả mô tả bức tranh tuyệt vời kia đồng thời với cuộc sống của một gia đình làng chài, một gia đình nhiều đau thương. Ở đó, tác giả tập trung thể hiện nhân vật người đàn bà hàng chài mang số phận bất hạnh, hằng ngày chịu bi kịch của bạo lực gia đình. Một người đàn bà vô danh, xấu xí nhưng bao dung, vị tha và hiểu lẽ đời sâu sắc. Một người đàn bà điển hình cho vẻ đẹp khuất lấp của phụ nữ miền biển nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung. Người đàn bà ấy ngoài 40, cái tên cũng không có, khi tác giả gọi là “mụ”, khi gọi là “chị ta”. Người đàn bà ấy có một ông chồng chỉ biết say xỉn, chửi bới và đánh đập. Nhưng bằng tình thương yêu con cái, chị vẫn cố gắng bám lấy biển, giữ lấy nhà, đùm bọc con cái. Chị nhẫn nhịn chịu đánh, “3 ngày trận nhẹ, 5 ngày trận nặng” bởi chị hiểu rằng con thuyền giữa biển khơi cần một người đàn ông chèo chống. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Tác giả còn xây dựng chân dung nhân vật Phùng. Phùng là người nghệ sĩ tài năng, say mê cái đẹp và trách nhiệm với nghề. Phùng có tấm lòng nhân hậu, thương người khi chứng kiến và sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà xa lạ chịu bất công. Tuy không chấp nhận cái xấu nhưng Phùng lại chưa đủ sâu sắc lẽ đời. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.

Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy (chồng người đàn bà hàng chài). Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào?Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy? Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

Chiếc thuyền ngoài xa, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng) đã để lại ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm thú vị về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.

Đề 3: Phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia”

a. Dàn ý chi tiết

Mở bài:

– Giới thiệu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nằm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

Thân bài:

1. Nhan đề Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

– Một nhan đề lạ lùng, mang đến sự chú ý cho người đọc

– Hạnh phúc, tan gia là chết mà sao hạnh phúc

– Một tình huống trào phúng chủ yếu của tác giả

2. Niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình khi cụ cố tổ chết

– Niềm vui chung là được chia tài sản của những người trong gia đình

– Đối với mỗi người thì có niềm vui riêng như: diễn trò già yếu, được chia thêm tiền, diện váy đẹp,.

– Đối với người ngoài: được xem đám tang, được nhìn cô Tuyết,…

3. Cảnh đám tang:

– Đám tang diễn ra nhố nhăng, lố bịch

– Có sự mâu thuẫn giữa bên ngoài và sự thật bên trong

– Phê phán thói khoe khoan, lối sống bất cần, ô nhục của một gia đình

. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

b. Các bài văn mẫu tham khảo

Bài làm mẫu số 1

Được gọi với cái tên ông vua phóng sự đất Bắc, Vũ Trọng Phụng là nhà văn yêu thích của không chỉ rất nhiều độc giả mà còn với nhiều văn nghệ sĩ trong văn đàn Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông chính là tác phẩm Số đỏ. Số đỏ là tiểu thuyết được Vũ Trọng phụng viết năm 1936, được coi là một kiệt tác của văn học trào phúng. Ta có thể tìm hiểu điều đó rõ nhất qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.

Ngay từ cái tiêu đề người đọc có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rõ ràng: tang gia nhưng lại hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lí. Nhưng nếu đọc truyện thì lại thấy tiêu đề này vô cùng hợp lí. Cái mà xã hội vốn coi là nghịch lí lại trở thành rất hợp lí trong gia đình đại bất hiếu này.

Bối cảnh của đoạn trích là sự ra đi của ông cụ tổ là bố của cụ cố Hồng, đã ngoại tám mươi tuổi và nay ra đi bởi vì uất ức trước việc cháu rể chồng của cụ ngoại tình. Theo lẽ thường cái chết của người có địa vị nhất nhà, người đóng vai trò là điểm tựa tinh thần vững chắc cho các thế hệ thành viên trong gia đình sẽ làm đau đớn, tan nát trái tim của con cháu. Nhưng ở đây, cái chết của cụ cố tổ dường như lại chính là niềm mong đợi mòn mỏi của các thành viên từ rất lâu. Như một nhà quay phim, ống kính của tác giả quay cận cảnh từng nhân vật một. Mỗi nhân vật lại có một hạnh phúc riêng, một niềm vui khôn tả:

Cụ cố Hồng hạnh phúc vì sẽ được mọi người trọng vọng về tuổi thọ của người con giai nhớn là “cố Hồng”. Dù vẫn còn trẻ chưa đến cái tuổi “thọ” nhưng cụ luôn thích được mọi người trọng vọng, kính nể, thích được tôn sùng như một vị cụ cố đức cao trọng vọng. Hẳn rồi, bố mình chết thì mình dĩ nhiên trở thành người địa vị lớn nhất nhà, không cố thì còn là gì nữa. Ông Văn Minh thì mừng vì đây là thời kì cái chúc thư đi vào thời kì thực hành. Ông nội mất thì cái sản nghiệp của ông mới được chính thức để lại cho con cháu mà người cháu trai này hẳn đang sốt ruột như ngồi trên tổ kiến mong chờ nó được thực hiện.

Bà Văn Minh thì mừng vì đây là cơ hội quảng cáo cho những mốt áo tang, đem lại lợi nhuận cho tiệm may. Đám tang của cụ cố tổ hẳn là một cái đám tang long trọng và tầm cỡ, sẽ có rất nhiều người đến dự đủ các tầng lớp từ quan chức tới tầng lớp bình dân, với một “ngày hội” lớn như vậy, nếu để các thành viên trong gia đình cùng diện những bộ áo tang tân thời của bà thì không những không mất tiền quảng cáo mà những bộ váy ấy sẽ được rất nhiều người biết đến và tìm đến với cửa hiệu Âu hóa.

Cô Tuyết thì vui mừng vì đây là cơ hội trưng diện y phục mốt nhất trước mặt người yêu cùng mọi người. Với cái vẻ đẹp xuân sắc cùng sự giàu có của gia đình, cô có thể sắm những bộ cánh điệu đà để Xuân tóc đỏ cùng mọi người ngắm nhìn sự thơ ngây của mình.

Với cậu Tú Tân thì đây là cơ hội để cậu điều khiển các nhà tài tử điện ảnh thi thố tài năng trước mắt mọi người. Thời điểm đương thời, có được những chiếc máy chụp hình đã không phải những gia đình tầm thường, giờ đây cậu lại có thể khoa chân múa tay yêu cầu cả một nhóm thợ phải chụp kiểu này kiểu kia, góc này góc khác, quả như một nhiếp ảnh gia tầm cỡ, đầy nghệ thuật. Có vẻ như gia đình nhà cụ cố tổ ai cũng theo đuổi những nét đẹp nghệ thuật hiện đại và đời mới nhất.

Ông Phán mọc sừng thì mừng bởi cuộc thương thảo với Xuân tóc đỏ đã kết thúc tốt đẹp, đúng như ông mong đợi, thành công mỹ mãn. Ông vừa có thể công khai cho gia đình nhà vợ cái hãnh diện vì mình được là một người chồng mọc sừng, có thể vạch trần cô vợ lăng loàn Hoàng Hôn. Cái vụ thương thảo mà ông đã mất tiền túi giờ đây lại phát huy tác dụng còn hơn cả mong đợi, làm cho tất cả mọi người đều biết, làm cụ cố tổ tức đến nỗi chết vì uất.

Đối với bạn của cụ cố Hồng, đây là cơ hội trưng diện các kiểu râu và các loại mề đay, “Bắc Đẩu Bội Tinh, Long Bội tinh, Cao Mên Bội tinh, Vạn Tượng Bội tinh…”. Không phải bỗng dưng mà trời cho cơ hội để khoe những cái đó với bàn dân thiên hạ, vậy thì giờ đây, cả thiên hạ sẽ phải nhìn vào những huân chương của các ông. Đồng thời đây cũng là cơ hội để họ chen nhau đi gần quan tài để nhìn bộ ngực của cô Tuyết qua làn áo voan của bộ váy ngây thơ.

Đối với đám bạn của con cháu: bà phó Đoan, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết… gồm toàn giai thanh gái lịch, nam thanh nữ tú của đô thành nhưng họ đi ở đây là để trưng diện những bộ cánh hiện đại nhất, đám tang sẽ là một sân khấu lớn và họ sẽ là những người mẫu thời trang catwalk trên sàn diễn của mình. Đây cũng là cơ hội để họ chim chuột nhau, cười tình với nhau, bình phẩm chê bai nhau.

Cả đám tang liên tục xuất hiện điệp khúc “đám cứ đi”, diễn tả một sự tiếp diễn bất tận, cái sự việc đưa một đám tang như một con đường trải thảm đỏ để người ta bước đi trình diễn trong sự trầm trồ ngắm nhìn của mọi người.

Cảnh hạ huyệt là lúc hội tụ đầy đủ nhất sự giả dối vô đạo đức cũng là lúc mà các vai hề diễn xuất một cách tài tình nhất (cảnh hề ấy lại gợi liên tưởng tới đám ma của Gorio trong tác phẩm của Balzac), nào là người gục người quỳ người gào khóc, tất cả theo đúng sắp xếp của cậu Tú Tân để cậu thực hiện bộ ảnh trong những phút giây để đời. Đến ông cháu rể Phán mọc sừng cũng nghẹn ngào tiếng khóc “Hứt! Hứt Hứt” giống với mong muốn hất hất hất đất vào huyệt của ông.

Đám tang đã diễn ra theo đúng quá trình và đạt được kết quả viên mãn, đúng với mong đợi của mỗi người. Ai cũng thấy khấp khởi mừng thầm vì cơ hội trời ban và họ đã đạt được đúng nỗi niềm mong mỏi khi giữa cái đám danh giá nhất thì họ đã được phô trương những thứ mà mình muốn khoe.

Tên truyện tưởng không thật nhưng quả đúng là rất thật. Mỗi người đều thực sự có những niềm hạnh phúc riêng, không hề giả tạo, tâng bốc. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng và tác phẩm Số đỏ nói chung đã vạch trần bộ mặt của nền văn minh phương Tây và phong trào Âu hóa, nhưng thực chất đây là sự ăn chơi đồi bại của bọn trưởng giả ở thành thị. Mặt khác tác phẩm cũng phơi bày hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng, một xã hội nhốn nháo thật giả lẫn lộn. Kẻ vô học nhưng giỏi bịp thì trở thành vĩ nhân, một mệnh phụ đồi bại dâm đãng thì được cọi là một tấm gương về đức hạnh, một gia đình băng hoại về đạo đức thì được coi là mẫu mực về nền nếp.