Trang chủ Lớp 10 Văn lớp 10 Văn mẫu 10 - Kết nối tri thức Mẫu 2 Phân tích đoạn 4 Bình ngô đại cáo Văn mẫu...

Mẫu 2 Phân tích đoạn 4 Bình ngô đại cáo Văn mẫu 10

Giải chi tiết Mẫu 2 Phân tích đoạn 4 Bình ngô đại cáo – Văn mẫu 10 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Lời giải:

Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tấm lòng yêu nước thương dân, tình yêu thiên nhiên tha thiết và đặc biệt là tư tưởng gần gũi với nhân dân. Và có thể nói Bình Ngô Đại Cáo là tác phẩm thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất tư tưởng đó của Nguyễn Trãi.

Bình Ngô Đại Cáo ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Sau khi đánh tan quân Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận giảng hòa, buộc quân Minh phải rút về nước, nước ta được độc lập, không còn kẻ thù. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Nguyễn Trãi đã vâng lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô Đại Cáo hay còn gọi là Đại Cáo Bình Ngô chính thức công bố với thiên hạ vào tháng Chạp năm Ất Mùi, tức là năm Ất Mùi, đầu năm 1428. Tác phẩm ra đời như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.

Bình Ngô Đại Cáo được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo – một thể loại văn học chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đi sâu tìm hiểu về thể loại văn này, chúng ta dễ dàng nhận thấy cáo là một thể loại văn viết bằng chữ Hán, có thể viết bằng văn xuôi hoặc câu đối nhưng có lẽ thông dụng nhất là văn xuôi con lắc. Cáo là một thể loại văn thường được các vua, chúa hay các quan sử dụng để thông báo rộng rãi với mọi người về một sự kiện hoặc vấn đề quan trọng. Cũng như nhiều thể loại văn cổ khác, cáo cũng đòi hỏi kết cấu mạch lạc, lập luận sắc bén, lập luận thuyết phục. Và có thể nói, với những đặc điểm hình thức như trên, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc trưng của thể loại văn học này.

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối mà lại minh

Mãi mãi là nền hòa bình vững chắc. Như một quy luật tất yếu: “bí mà thái”, “hối mà lại minh”, đất nước ta sau 20 năm bị quân Minh “dối trời, gạt dân… xâm lăng, “ngàn năm tủi nhục” Tổ Quốc Việt Nam Vĩ Đại bước vào kỷ nguyên mới độc lập, hòa bình, thịnh vượng “bền vững”, tiến tới “đổi mới”, “vững chắc” mãi mãi. Giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, tràn đầy tự hào, tin tưởng, thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc ta hạnh phúc. Sở dĩ Bình Ngô đại thắng là nhờ sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là cội nguồn, là nguyên nhân của chiến thắng. Sự nghiệp của “Bình Ngô Đại Cáo” là một trang sử vàng chói lọi, “Một áo nhung thắng ngàn năm ghi công…”

Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là quân sư “có tâm tuân thủ pháp luật”, cánh tay phải của Lê Lợi, là “người soạn thảo tài ba” (Lê Quý Đôn). Thư của ông gửi tướng giặc Minh “khỏe như vạn quân” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi, Lê Lợi làm nên sự nghiệp “Bình Ngô”, người soạn thảo Bình Ngô Đại Cáo, bản tuyên ngôn độc lập và hòa bình của Đại Việt ở thế kỷ XV.

Bình Ngô Đại Cáo cho ta thấy phong cách vô song và tài học thuật của Trai. Giã từ là một lời dụ rất trang nghiêm, nhằm thông báo với toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự nghiệp của “Bình Ngô” kéo dài 10 năm. Quân dân ta đã trải qua bao gian khổ, thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng từ những năm tháng gian khổ cho đến ngày toàn thắng “bốn phương trời yên biển lặng”, nhưng Nguyễn Trãi đã viết một cách cô đọng: Cáo dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, chủ nghĩa anh hùng và khát vọng độc lập, hòa bình đã làm nên tầm vóc văn học và màu sắc sử thi của bản Đại cáo Bình Ngô, bản hùng ca của nước Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và chính luận, vừa sắc sảo, sâu sắc, vừa đa thanh; có lúc đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, có lúc dữ dội, có lúc mạnh mẽ, uy nghiêm. Đất nước và con người Đại Việt được nhắc đến trong bài cáo là một đất nước, một dân tộc văn hiến, anh hùng.