Trang chủ Lớp 10 Văn lớp 10 Văn mẫu 10 - Kết nối tri thức Câu siêu ngắn Mẫu 2 Viết bài văn nghị luận về vở...

Câu siêu ngắn Mẫu 2 Viết bài văn nghị luận về vở Chèo Thị Mầu lên chùa Văn mẫu 10: Tác giả dân gian tạo dựng nhân vật Thị Mầu với tính cách phóng khoáng, nổi loạn. Thị Mầu, thông qua hành động ve vãn chú tiểu

Giải Câu siêu ngắn Mẫu 2 Viết bài văn nghị luận về vở Chèo Thị Mầu lên chùa – Văn mẫu 10 Kết nối tri thức.

Câu hỏi/Đề bài:

Tác giả dân gian tạo dựng nhân vật Thị Mầu với tính cách phóng khoáng, nổi loạn. Thị Mầu, thông qua hành động ve vãn chú tiểu, thể hiện sự táo bạo. Mọi lời nói, động tác của Mầu đều hướng về Kính Tâm. Ngay khi chú tiểu xuất hiện, Mầu mê đắm. Kính Tâm hỏi tên, Mầu tự tin đáp:

“Tên em là gì?”

“Là Thị Mầu, con gái phú ông.

Tuổi mới đôi tám, chưa chồng đâu thầy tiểu ơi!

Chưa có chồng đâu nha!”

Thị Mầu không ngừng nhấn mạnh mình là cô gái hai mươi chưa lập gia đình. Mục đích là để bày tỏ mong muốn gặp duyên phận. Không chỉ vậy, nàng còn khen ngợi chú tiểu: ‘Ở đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?’, ‘Người đâu đến ở chùa này/ Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang’. Đối với lời cảm thán ‘Cô Mầu khen chú tiểu thế!’, Mầu tự tin đáp:

Biết nhà mất bò, Mầu vẫn mặc kệ ‘Nhà tao còn ối trâu’. Dường như, Mầu không quan tâm đến điều gì khác ngoài việc ve vãn sư thầy. Ngày càng, mức độ tán tỉnh của Mầu tăng cao:

“Thầy như táo rụng sân đình

Như gái rở, đi rình của chua”

Phép so sánh độc đáo này bộc lộ niềm khao khát yêu đương cháy bỏng của Thị Mầu. Sau mùa xuân, táo ở sân đình chín rụng. Vì không được chăm sóc, già cỗi nên thường có vị chua và chát. Gái rở là người phụ nữ có mang, thích ăn của chua và những thứ lạ. Do đó, câu ‘gái rở thèm của chua’ thường diễn tả khao khát ngoài luân thường đạo lý. Thị Mầu ví mình như gái rở, thầy tiểu như táo rụng ngoài đình nhấn mạnh sự khác biệt niềm mong đợi.

Tác giả dân gian thêm vào những lời phê phán Thị Mầu: ‘Mầu ơi, nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?’. Tuy nhiên, trước những lời nói đó, Thị Mầu khăng khăng khẳng định: ‘Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!’.

Dù đã sử dụng nhiều từ ngọt ngào, Thị Mầu vẫn không làm cho chú tiểu đáp lại. Nàng quyết định sử dụng lời hát ghẹo:

“Ei các thầy tiểu ơi!

Đứng trước cổng chùa

Tôi bước vào gọi, thầy tiểu chẳng thưa, lòng buồn

[…] Em đẹp, đứng đây một mình vẫn đẹp!”

Đoạn hát ghẹo tiểu của Thị Mầu thể hiện tư tưởng về tình yêu tự do, thoải mái, vượt qua rào cản xã hội. Câu ‘Ei thầy tiểu ơi!’ lặp đi lặp lại, nhấn mạnh đối tượng mà Mầu hướng đến và là mở đầu cho lời giãi bày mong muốn của nàng. Thị Mầu coi trọng hạnh phúc cá nhân hơn là ý kiến gia đình, và nàng không quan tâm đến ý kiến của họ. Trong hát ghẹo, Mầu bày tỏ mong muốn kết duyên với Kính Tâm bằng cách sử dụng từ ngữ như ‘đôi ta’, ‘quyết đợi chờ lấy nhau’, ‘có thiếp có chàng’. Mầu khao khát tình yêu mạnh mẽ, tự do.

Ngày càng sâu sắc, Mầu trở nên sỗ sàng, bỗ bã: ‘Bỏ mô Phật đi!’ Trong không khí trang nghiêm của chùa, nàng không kiềm chế được lời nói thậm chí là ‘báng bổ’ đến Phật. Lúc này, Mầu hoàn toàn lạc quan, chỉ quan tâm đến việc tán tỉnh sư thầy:

“Mong chú tiểu quét sân

Xích lại gần, cầm chổi quét thay

Lá tình, không cần gió mà bay!”

Hay:

“Muốn cây cải xanh mát

Thài lài rau dược bên bờ tre.”

Vì chú bé không thấu hiểu được tâm trạng của mình, Thị Mầu đã tỏ ra nhớ thương: ‘Để tôi yêu thương lạ lùng, lưu luyến lặng lẽ!’.

Hành động của nhân vật cũng là cách thể hiện tính cách và đặc điểm cá nhân. Thị Mầu không chỉ hát mà còn nói, để lộ tình cảm với Kinh Tâm. Điều đặc biệt, Thị Mầu thể hiện sự táo bạo khi mở lòng, nắm tay Kinh Tâm, thay vì Tiểu Kính. Hành động này trong thời đại phong kiến được coi là không chấp nhận, với quy tắc ‘nam nữ thụ thụ bất thân’. Điều này càng trở nên gìn giữ khi Kính Tâm tuân theo đạo lý.

Nhân vật Thị Mầu qua lời nói và hành động là hình ảnh của một phụ nữ nổi loạn, đối đầu với quy định đạo đức của xã hội phong kiến. Tác giả dân gian thông qua nhân vật này muốn chỉ trích những người phụ nữ không tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức và xã hội.

Trong đoạn trích ‘Thị Mầu lên chùa’, nhân vật Thị Mầu là biểu tượng của những phụ nữ tự do, chống đối niềm tin và các quy tắc chung trong xã hội phong kiến. Bên cạnh Thị Kính, Thị Mầu cũng đóng góp quan trọng vào sự thành công của đoạn trích và vở chèo nói chung.