Trang chủ Lớp 10 Văn lớp 10 Văn mẫu 10 - Cánh diều Mẫu 4 Phân tích Bảo kính cảnh giới Văn mẫu 10

Mẫu 4 Phân tích Bảo kính cảnh giới Văn mẫu 10

Giải Mẫu 4 Phân tích Bảo kính cảnh giới – Văn mẫu 10 Cánh diều.

Câu hỏi/Đề bài:

Lời giải:

“Quốc Âm thi tập” – Nguyễn Trãi được coi là đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật, mang đến nhiều đóng góp nổi bật cho nền thơ ca trung đại. Hầu hết, những sáng tác thuộc tập thơ này đều hướng tới chủ đề quen thuộc như: tình cảm đời thường, tình yêu thiên nhiên hay tấm lòng yêu nước, thương dân. Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, chúng ta không thể bỏ qua thi phẩm “Bảo kính cảnh giới” (bài 43). Với những đặc sắc về nội dung và độc đáo về hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Nguyễn Trãi vốn là một nhà quân sự, chính trị, ngoại giao. Ông dành cả một đời canh cánh nỗi lo việc nước, vì thế, thời khắc tìm về thiên nhiên chính là giây phút thư nhàn hiếm hoi. Câu thơ mở đầu đã gợi ra hoàn cảnh của thi nhân:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường.”

Câu thơ là sự phá cách táo bạo ít thấy trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Phần đề hai câu nhưng chỉ có một câu là lục ngôn. Nhịp điệu thong thả với cách ngắt nhịp 1/2/3 đã gợi lên phong thái thư thái, an nhàn của con người. Từ “rồi” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh vào hoàn cảnh sống rỗi rãi, thảnh thơi. Như vậy, trong thời khắc nhàn rỗi ấy, thi sĩ tìm về với thú vui tao nhã của các Nho sĩ khi xưa: “hóng mát thuở ngày trường”.

Nhàn nhã ngồi ngắm cảnh, Nguyễn Trãi không khỏi rung động, xao xuyến trước bức tranh ngày hè đẹp đẽ, tươi tắn:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.

Hồng liên trì đã tịn mùi hương”

Không còn là hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng “tùng, cúc, trúc, mai” như trong thơ cổ, Nguyễn Trãi miêu tả khung cảnh thiên nhiên bằng các hình ảnh hết sức bình dị, gần gũi. Trước hết, đó là cây hòe có hoa vàng, lá xanh đang ở độ tràn đầy sức sống. Nhà thơ cảm nhận thấy sự vận động âm thầm, mãnh liệt của cây và thể hiện điều đó qua động từ “đùn đùn”. Những tán hòe không ngừng vươn mình, tạo nên tầng tầng lớp lớp, che rợp mặt đất. Cụm từ “tán rợp trương” đã gợi ra một không gian rộng lớn được bao phủ bởi sắc xanh thẫm, tươi mát của tán hòe. Tiếp đến, nhà thơ khéo léo khắc họa hình ảnh cây lựu trước hiên nhà. Bằng quan sát tinh tế, Nguyễn Trãi đã bắt trúng được thần thái riêng có của hoa lựu mùa hè. Động từ “phun” diễn tả sự sống căng tràn, không thể kìm lại của hoa. Những bông hoa đỏ rực liên tục bung nở. Bức tranh càng thêm đằm thắm, tươi đẹp nhờ sự điểm tô của sen hồng. Ngoài ao, sen đã nở rộ và tỏa ngát hương thơm. Vạn vật như đắm mình trong mùi hương dịu nhẹ, thuần khiết của loài hoa thanh cao.

Như vậy, thiên nhiên không chỉ được gợi nên từ những hình ảnh, màu sắc rực rỡ mà còn được khắc họa qua sức sống cuộn trào bên trong mỗi cảnh vật. Bức tranh ngày hè càng thêm rộn ràng nhờ bản hòa tấu âm thanh:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ;

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Phía xa, tiếng “lao xao” của phiên chợ ở làng nghề chài lưới như vọng tới tâm hồn thi nhân. Từ láy tượng thanh “lao xao” gợi tả âm thanh rộn rã và bầu không khí tấp nập, đông vui của người dân. Trong buổi chiều tà, đàn ve cũng dạo lên bản nhạc “cầm ve”. Nhà thơ tiếp tục sử dụng nghệ thuật đảo trật tự ngữ pháp cùng từ láy “dắng dỏi” để làm nổi bật thanh âm inh ỏi, trong, cao của tiếng ve. Từ đây, bức tranh thiên nhiên đã có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình ảnh và âm thanh.

Đến với hai câu thơ cuối, ta lại thấy được tấm lòng cao cả của thi sĩ:

“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

“Lẽ có” nghĩa là lẽ nên có, mong được có. Đặt từ này ở đầu câu thơ kết hợp với điển tích “Ngu cầm”, Ức Trai kín đáo thể hiện ước mơ về cuộc sống thái bình, ấm no. Ông ao ước có cây đàn của vua Ngu Thuấn, từ đó gẩy lên khúc Nam Phong để “dân ta bớt ưu phiền”, “dân ta ngày thêm nhiều của cải”. Câu thơ cuối với 6 tiếng ngắn gọn chính là bao tâm tư, cảm xúc dồn nén của nhà thơ. Ông tha thiết hi vọng quần chúng nhân dân ở khắp nơi đều sống êm ấm, hạnh phúc. Tưởng như tâm hồn thi sĩ chỉ lắng đọng trong cảnh sắc thiên nhiên mà không phải vậy. Sau tất cả, tấm lòng cao đẹp ấy vẫn hướng về dân tộc, đất nước. Từ đây, ta càng thêm kính phục, ngưỡng mộ người anh hùng “trung quân ái quốc”, thấu hiểu thế sự, có tư tưởng tiến bộ “thân dân”, “lấy dân làm gốc”.

Bên cạnh chủ đề đặc sắc, bài thơ còn gây ấn tượng với độc giả bởi hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, bằng ngôn ngữ mộc mạc, dân dã, hình ảnh đời thường quen thuộc cùng hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn, nhà thơ đã sáng tạo nên một tác phẩm mang đặc trưng của “lối thơ Việt Nam” (Đặng Thai Mai). Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” và các động từ mạnh “đùn đùn”, “phun” cũng góp phần tô đậm vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống.

“Bảo kính cảnh giới” (bài 43) đã vẽ nên một bức tranh ngày hè tươi tắn, rạng ngời, đậm đà hồn quê Việt. Qua bài thơ, Nguyễn Trãi cũng khéo léo bộc lộ tấm lòng, tình yêu thiên nhiên cuộc sống và đất nước tha thiết. Theo thời gian, những giá trị, ý nghĩa nhân văn của tác phẩm sẽ luôn tỏa sáng và khắc sâu trong tâm trí bạn đọc.